HUYỀN THOẠI HỒ CHÍ MINH
(Đề cương)
Hồ Chí Minh là một nhân vật quan trọng trong phong trào cộng sản quốc
tế và giải phóng dân tộc thuộc thế kỷ 20. Ông đã lập ra Đảng cộng sản Việt Nam,
tổ chức cuộc chiến đấu bền bỉ chống lại các thế lực thực dân hiện đại, đã hoàn
thành độc lập thống nhất, tạo cơ sở quyền lực để thiết lập chế độ gọi là chủ
nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam. Đã có khá nhiều ý kiến nhận định, đánh giá sự
nghiệp của ông theo nhiều quan điểm khác nhau trên thế giới. Nhưng ở Việt Nam,
trong chế độ cộng sản, từ một nhân vật lịch sử ông đã trở thành một nhân vật
huyền thoại có tác dụng huyễn hoặc rất đặc biệt.
Theo những người nghiên cứu vềViệt Nam, hiện tượng này có ba nguồn gốc:
1) tự ông cố ý tạo ra để lôi kéo quần chúng,
2) Đảng cộng sản đã dầy công làm cho ông thành một biểu tượng thờ phụng của chế
độ,
3) người Việt Nam hy vọng vào ông như một ngưới cứu độ, giúp họ thực hiện được
những mong mỏi nghìn đời của đất nước và bản thân.
Nếu huyền thoại Hồ Chí Minh đã cho Đảng cộng sản uy tín hầu như quyết định để
chiến thắng trong chiến tranh, thì do những thất bại của Đảng cộng sản trong xây
dựng hoà bình mà huyền thoại Hồ Chí Minh từ từ rạn vỡ trong nhân dân và cả trong
Đảng. Một cái nhìn công bằng là một cái nhìn hiện thực về nhân vật lịch sử này.
VẼ RỒNG THẤY ĐẦU KHÔNG THẤY ĐUÔI
Do phải giữ kín tung tích trong hoạt động bí mật, lý lịch của Hồ Chí Minh cũng
là một bí mật. Sau cách mạng 1945, nhiều người còn chưa biết ông là ai. Nhiều
đoạn đời của ông có một thời bị nhiều nhà viết tiểu sử ông để trống (như sau vụ
thất bại của Xô viết Nghệ tĩnh 1931 đi đâu không biết cho đến năm 1941 mới xuất
hiện lại và về nước ). Phần ông, ông lại không chịu viết hồi ký hoặc chính thức
công bố đầy đủ lý lịch của mình. Nếu có viết thì ông lại không ký tên thật. Với
bút danh Trần Dân Tiên trong Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch,
hình ảnh mà ông tự giới thiệu chỉ là một người cách mạng rày đây mai đó, không
có cuộc sống riêng tư. Nhưng đó cũng chính là ý muốn của ông. Trong cuốn sách
nhỏ này ông có khen ngợi tài của người hoạ sĩ Trung hoa vẽ rồng và cho rằng vẽ
rồng giỏi là chỉ cho người xem trông thấy đầu còn đuôi thì dùng những cụm mây
che khuất đi. Thủ thuật ấy rõ ràng ông đã sử dụng để tự hoạ. Cái cốt cách thanh
thoát mờ ảo ấy thật ra cũng đã toát ra từ chính con người của ông: với khuôn mặt
xương xuơng, dáng người gầy, mới 50 tuổi đã để râu dài, ông có vẻ xuất thế hơn
rất nhiều so với một số lãnh tụ cộng sản châu Á khác - như Mao Trạch Đông chẳng
hạn.
Hình ảnh xuất hiện chính thức của ông trước công chúng do vậy ngoài một lãnh tụ
cộng sản tầm cỡ quốc tế tài ba, còn là một hiền triết phương Đông. Nhưng đối với
ông, không phải chỉ có như vậy. Trong thời chống Pháp, có một dạo, mấy chữ cha
già dân tộc đã được bộ máy tuyên truyền Việt Minh dùng để tôn vinh ông khá ồn ào
(như câu hát: thi đua thi đua cha già nhắn tin về...). Thật sự thì hình ảnh này
đã được chính ông sử dụng để tự đề cao trong Những mẩu chuyện về đời Hồ Chủ Tịch
do chính ông viết (Nhân dân gọi Chủ tịch là Cha già của dân tộc, vì Hồ Chủ tịch
là người con trung thành nhất của Tổ quốc Việt Nam). Về sau có lẽ vì thấy hơi
quá lố, hình ảnh ấy không còn được nhắc lại, mấy chữ Bác Hồ được thay vào và giữ
mãi cho đến khi ông mất.
Trong tiếng Việt, chữ bác chỉ vai người anh của cha, dùng để xưng với các cháu
thiếu nhi thì thích hợp. Nhưng sau này, nó lại trở thành phổ biến để mọi người
gọi theo. Theo nhiều người gần gũi ông cho biết thì điều đó cũng do ông chỉ đạo:
ai mới gặp ông mà gọi ông bằng là anh hoặc đồng chí thì bị ông chỉnh lại ngay
(tôi nghe nói trong những ngươi bị ông chỉnh có Trần Văn Giàu và nhà văn Nguyễn
Huy Tưởng).
Cung cách ứng xử của ông thường được coi như tấm gương để toàn Đảng, toàn dân
học tập, trong đó tác phong giản dị, cần kiệm, thân dân (lo chuyện tương cà mắm
muối cho dân) thường được đề cao nhiều nhất. Năm 1968, sau khi vào chiến khu,
suốt 7 năm ở R, năm nào đến 19 tháng 5 (người ta cho là sinh nhật của ông),
trong các buổi lễ kỷ niệm tôi đều được nghe không biết bao lần những câu chuyện
như vầy:
- Chuyện đôi giép râu.
Bác Hồ đi giép râu thì ai cũng biết. Bác đi một đôi giép đến mòn lẳn. Cậu bảo vệ
đề nghị Bác thay nhiều lần nhưng Bác nhất định không chịu. Cuối cùng nài nỉ mãi
không được, cậu đã phải lén lấy đôi giép ấy đi đổi. Khi phát hiện, Bác không vừa
lòng và nhất quyết bắt cậu bảo vệ đi lấy lại đôi giép cũ.
- Chuyện lá giong gói bánh chưng của dân Hà nội.
Mỗi năm khi gần Tết, mặc dầu bận trăm công ngàn việc, Bác vẫn điện thoại hỏi
đồng chí Trần Duy Hưng, bấy giờ là chủ tịch thành phố Hà nội, xem có lo đủ lá
giong để gói bánh chưng cho dân chưa?
Còn nhiều chuyện khác có nội dung tủn mủn, lẩm cẩm và bao cấp như vậy. Chưa kể
đến những bài nhạc, bài thơ - nơi không cần phải mô tả những chi tiết - người ta
đã tha hồ dùng sự bay bổng của phạm trù mỹ học gọi là sự cao quý để đưa ông lên
chín tầng mây! Từ một người anh hùng giải phóng dân tộc, ông trở thành một ông
tiên trong các truyện thiếu nhi, một nguồn cảm hứng vô tận để hình thành những
bài tụng ca, và hơn nữa, còn là hình tượng của người đi cứu độ chúng sinh nữa.
Sau 1975, tôi thấy người ta đã dựng bàn thờ của ông ngay giữa bùng binh Sài gòn,
khói hương nghi ngút. Ngày nay nhiều nơi vẫn còn giữ thói quen này, không phải
chỉ với riêng ông (nhiều liệt sĩ cộng sản đã thành thần trong các miễu, các
đền).
Cuộc sống riêng tư
Chuyện tình ái, vợ con của ông là điều được dư luận quan tâm, nhưng sách báo của
Đảng thường né tránh. Cả một đời vì nước vì non thì màng chi đến những hệ luỵ
nhân gian ấy! Nhưng điều này hoàn toàn không đúng ngay cả đối với ông: có lần
ông đã cho rằng sai lầm lớn nhất đời ông là không lấy vợ! Nói chơi thôi nhưng
thật sự trong thực tế, đã có nhiều chuyện kể cho biết ông có rất nhiều nhân tình
ở khắp nơi, từ Pháp, Nga, Trung quốc...
Bà Kim Hạnh lúc làm tổng biên tập báo Tuổi trẻ, vì đăng ở trang nhất tin nói về
bài thơ của ông (bí danh Lý Thuỵ khi từ Liên xô ông sang Trung quốc khoảng 1925)
gửi người vợ Tàu mà bị cách chức và đuổi khỏi làng báo. Một nhà nghiên cứu Mỹ,
khi truy tầm hồ sơ mật của Đệ tam quốc tế lưu trữ tại Moscou sau khi Liên xô sụp
đổ, đã tìm thấy tài liệu cho biết khi đi dự một Đại hội Quốc tế cộng sản ở Nga,
ông đã khai có vợ và người ấy chính là đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai chứ không
phải là ai khác!
Trong nước chuyện tình của ông nhiều hơn và cũng nhiều tính chất bi thảm hơn. Dư
luận Hà nội râm ran từ lâu chuyện ông ăn ở với một cô tên Xuân, cô này do mật vụ
Trần Quốc Hoàn đưa về để phục vụ ông nhưng sau cho người giết đi để bịt tung
tích, có đứa con trai được Vũ Kỳ, thư ký riêng của ông đem về nuôi. Gần đây nhân
Đại hội 9 của Đảng (tháng 4 năm 2001), các hãng thông tấn phương Tây đã nói đến
khá nhiều chuyện năm 1941, khi về nước, ông đã quan hệ với một nữ cần vụ người
dân tộc và sinh ra Nông Đức Mạnh, mới được bầu làm Tổng bí thư Đảng.
Những chuyện tình nói trên, hư thực ra sao chưa được chứng minh thật thuyết
phục, nhưng xét về mặt đạo đức cá nhân thật ra chẳng có gì quan trọng lắm: các
lãnh tụ cộng sản cũng là những con người, vợ con, này nọ đủ cả, một số lại rất
hoang toàng trong cái khoản mục này! Giả sử Hồ Chí Minh có như vậy đi nữa thì
công lao chống thực dân của ông chẳng hề bị suy suyển. Nhưng do Đảng cộng sản
Việt Nam không chỉ muốn dừng lại với cái công lao ấy mà còn vượt lên thời gian
tồn tại muôn năm, nên hình ảnh của Hồ Chí Minh phải được tô vẽ sao cho thật lý
tưởng, thật phi thường.
Và đó cũng chính là chính sách tạo thần tượng của guồng máy. Người ta có thể vẫn
sống một cuộc sống bình thường, nhưng khi Đảng cần thì cái bình thường sẽ được
thay vào bằng những việc làm, những sự tích thần thánh. Anh là người có tính
Đảng cao thì anh phải biết tuân phục: cứ việc sống bình thường nhưng phải biết
cố gắng đóng cho tròn cái vở kịch được tạo ra cho mình. Chỉ vì lợi ích cách mạng
thôi. Càng có nhiều tấm gương phi thường để những người bình thường noi gương hy
sinh thì sự nghiệp của Đảng mới huy hoàng: cờ Đảng chẳng đỏ rực màu máu hay sao?
Chính vì đã dựa trên cái lý lẽ về chủ nghĩa anh hùng cách mạng đó mà Đảng đã tạo
ra khá nhiều những truyền thuyết trong tất cả mọi lĩnh vực từ bộ đội, tình báo
đến nhà báo, nhà sư.... Hồ Chí Minh cũng chỉ là một huyền thoại trong những
huyền thoại do Đảng tạo ra, nhưng là huyền thoại của những huyền thoại cho nên
phương pháp tạo dựng cũng phải hết sức đặc biệt.
Không biết có khi nào suy ngẫm lại những cái đã qua, ông cảm thấy những bất ổn
trong những vở kịch do mình tạo ra hay không, nhưng từ bên ngoài, nhiều người đã
thấy khá nhiều những bực bội, buồn phiền gây ra cho ông bởi chính cái đám âm
binh cách mạng của ông. Có nhiều chuyện không vui vẻ lắm, nhưng chuyện ông bị
cho ra rìa suốt trong quãng đời còn lại trước khi ông mất là đáng chú ý nhất.
Sau cải cách ruộng đất năm 1956 ở miền Bắc, do nhập từ Trung quốc, quá thất đức
và sai lầm, ông đưa Võ Nguyên Giáp, uy tín như cồn sau Điện Biên Phủ, ra thay
mặt Đảng xin lỗi nhân dân, sau đó định sẽ lên thế chỗ Trương Chinh làm tổng bí
thư. Lúc bấy giờ ở Liên xô, Krushchev đang thắng thế với đường lối hoà bình,
trong Đảng Việt Nam cũng có xu hướng ấy. Nhưng tình hình Việt Nam lại không
thuận lợi để phát triển. Do cường độ cuộc chiến tranh ở miền Nam đã lên cao,
đường lối quyết liệt dùng bạo lực để giải quyết chiến tranh thắng thế đã đưa
cánh Lê-Duẩn-Lê Đức Thọ lên nắm quyền.
Về Võ Nguyên Giáp thì kết quả ai cũng nhìn thấy: bị quy là kẻ cầm đầu chủ nghĩa
xét lại và bị trù dập suốt một thời gian dài, đến khi Lê Duẫn chết mới thôi. Còn
về Hồ Chí Minh thì dường như chẳng có gì, nhưng thật sự cũng đã chịu số phận
chung với tướng Giáp. Bên ngoài thì vẫn đi đây đi đó, chỉ đạo việc này việc
kia... nhưng bên trong đã dần dà bị cô lập, chỉ giữ vai trò của một ngọn cờ
tượng trưng, không có ảnh hưởng gì lắm tới những quyết định lớn. Theo một bài
viết của Vũ Kỳ (đăng trên một số báo Văn nghệ Xuân cách đây vài năm), công lao
của Hồ Chí Minh trong cuộc tổng tấn công và nổi dậy 1968, vẻn vẹn chỉ có bài thơ
Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua, Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà... Sau khi ghi âm
bài thơ này thì ông được đưa đi... nghỉ. Vũ Kỳ thuật rằng ông Hồ chỉ biết ngày
giờ cuộc Tổng tấn công và nổi dậy nổ ra qua Đài phát thanh nghe đựơc ở nơi ông
được gửi đi nghỉ là Bắc Kinh - cùng với giọng đọc của ông, ra rả suốt ngày về
bài văn vần nói trên. Nhiều người đã nói đến nhiều khuynh hướng đối nghịch nhau
trong Đảng cộng sản Việt Nam thời chiến tranh; nhưng qua câu chuyện trên, ta
thấy có hai xu hướng chính trong suốt một thời gian dài: Lê Duẩn-Lê Đức Thọ đối
đầu với Hồ Chí Minh- Võ Nguyên Giáp.
Dù sao chế độ vẫn cần sự thiêng liêng của ông để tạo ra sự thiêng liêng cho
chính mình nên cái chết của ông cũng đã được cánh Lê Duẩn/Lê Đức Thọ khai thác
triệt để để xài một cách thoải mái. Ngày chết của ông là 2-9 vì trùng với ngày
quốc khánh nên người ta dời lại 3-9-1969. Trong di chúc cuối cùng, ông muốn được
hoả táng và đem tro rải xuống biển hoặc chôn vào một vùng đất nào đó, người ta
lại bỏ không biết bao nhiều tiền bạc ra ướp xác và xây lăng nghìn đời cho ông.
NHỮNG LỰA CHỌN CHÍNH TRỊ
Con người của Hồ Chí Minh được thần thánh hoá chỉ nhằm mục đích thần thánh hoá
những lựa chọn chính trị của ông cho Đảng cộng sản. Những chủ đề sau đây đã trở
thành kinh điển trong các khoá giảng dạy về tư tưởng của chế độ: từ thuở ấu thơ,
Hồ Chí Minh đã ưu tư về tình trạng nô lệ của dân tộc, vì thế đã quyết định bỏ xứ
ra đi tìm đường cứu nước; chu du khắp thế giới để tìm hiểu và so sánh, cuối cùng
ông đã nhận ra chủ nghĩa Mác-Lênin thần kỳ, không những giúp dân tộc giành được
độc lập mà còn mở đường đi vào cõi hạnh phúc muôn đời; Đảng cộng sản Việt Nam là
lực lượng chính trị duy nhất thực hiện được cái tất yếu ấy của lịch sử cho nên
quyền lãnh đạo của Đảng đối dân tộc sẽ là vĩnh viễn và tuyệt đối.
Qua sự kiểm nghiệm của lịch sử hơn nửa thế kỷ đã qua, người ta thấy những xác
tín trên đây nếu đúng một phần nhỏ thì sự cường điệu và phóng đại lại là quá
nhiều.
Thí dụ: việc tìm đường cứu nước.
Có lẽ không cần tranh luận về cái giả định khởi đầu này: Hồ Chí Minh là một
trong rất nhiều những thanh niên yêu nước vào lúc bấy giờ. Nhưng từ đó cho rằng
vì yêu nước mà ngay từ đầu đã có ý định phải ra nước ngoài để tìm giải pháp cứu
nước thì điều này không nhất thiết phải là tất yếu. Một người Pháp nghiên cứu về
Việt Nam là D. Hémery có tìm ra được một tờ đơn của Hồ Chí Minh đề ngày
15-9-1911 ở Marseille - ký là Paul Tất Thành - gửi chính phủ Pháp xin vào học
trường Ecole coloniale (một loại trường tạo công chức cho các thuộc địa) và đã
bị từ chối. Nhà sử học này cũng tìm ra một số thư của ông - cũng ký là Paul Tất
Thành - nhiều lần gửi về nước nhờ Khâm sứ Trung kỳ hỏi thăm tin tức và chuyển
tiền cho cha. Từ những tài liệu này - Biên niên tiểu sử Hồ Chí Minh (Chính trị
Quốc gia, Hà nội, 1993) có ghi lại phát hiện của Hémery - người ta có thể bàn
luận nhiều chuyện, nhưng để đừng đi quá xa chúng ta chỉ cần ghi nhận điều hiển
nhiên sau đây: ý định cứu nước của Hồ Chí Minh chưa chắc đã có ngay từ lúc bỏ
nước ra đi, ý định ấy có thể đã đến sau những dự tính khác không thành (thí dụ
không được chấp nhận vào học tại Ecole coloniale). Giả thiết này chẳng hề hạ
thấp tình cảm yêu nước của ông, nhưng tất nhiên, như vậy thì sẽ rất khó để tạo
ra cái chủ ý lý tưởng hoá cuộc đời ông từ nhỏ cho đến lớn. Làm sao có thể cho là
lý tưởng cái hiện tượng Hồ Chí Minh tự gọi mình là Paul Tất Thành, xin đi học
làm công chức cho chính quyền thực dân đồng thời nhờ cả chính quyền thực dân ấy
chuyển tiền từ nước ngoài về cho cha!
Cái lập luận cho rằng sau khi đã bôn ba khắp nơi để nghiên cứu tìm hiểu, từ đó
thấy chủ nghĩa Mác-Lênin tuyệt vời nên Hồ Chí Minh mới chọn - lập luận này cũng
tỏ ra rất khó thuyết phục. Việc ông đi đây đó trên thế giới không đủ để chứng
minh được rằng ông đã thâu đạt được tất cả những tinh hoa của nhân loại như đã
được những người xưng tụng ông giả định. Khác với nhiều lãnh tụ châu Á khác,
chẳng hạn như Tôn Dật Tiên, Gandhi, ông không hề có ý định đào sâu kiến thức của
mình qua các trường Đại học. Thời gian ông trở lại nước Pháp hơi lâu
(1917-1923), nhưng công việc của ông ở đây vẫn đi theo cái chiều hứơng nghiêng
về phần thực hành, quan hệ tiếp xúc, viết báo, vận động... Các sách ông đọc ở
đây chỉ là những loại phổ thông, không có gì chứng tỏ được chiều sâu cần thiết
về tư duy để nghiêm chỉnh tiếp thu chủ nghĩa Mác. Tôi đã viết ra nhiều lần nhận
xét này, nay không sợ lặp lại để nói thêm một lần nữa.
Những nhà nhà ý thức hệ cộng sản có thể rất tức giận vì nhận xét ấy, nhưng tiếc
thay, điều đó lại được chính Hồ Chí Minh nói ra. Ai đã đọc cuốn sách mang tên
Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chí Tịch do chính ông viết (dưới bút
danh Trần Dân Tiên) thì sẽ thấy ngay. Xin dẫn một vài đoạn ông kể về Đại hội
Tours cuối năm 1920 của Đảng Xã hội Pháp:
Người ta thảo luận rất sôi nổi (...) Ông Nguyễn lắng nghe nhưng không hiểu rõ
lắm, vì người ta thương nhắc đi nhắc lại những tiếng, những câu: chủ nghĩa tư
bản, giai cấp vô sản, bóc lột, chủ nghĩa xã hội, cách mạng, không tưởng, khoa
học, Saint-Simon, Fourrier, Marx, chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa cải lương,
sản xuất, luận đề,... giải phóng... chủ nghĩa tập thể... chủ nghĩa cộng sản,
khách quan, chủ quan v.v...
Không hiểu rõ lắm, nhưng đến lúc biểu quyết, gia nhập Đệ tam hoặc ở lại Đệ nhị
Quốc tế thì ông vẫn bỏ phiếu cho Đệ tam Quốc tế.
Rất ngạc nhiên, Rô-dơ, làm tốc ký của Đại hội hỏi ông Nguyễn: Đồng chí! Bây giờ
đồng chí hiểu tại sao ở Pa-ri, chúng tôi đã bàn cãi nhiều như thế rồi chứ?
- Không, chưa thật hiểu đâu
- Thế thì sao đồng chí lại bỏ phiếu cho Đệ tam quốc tế?
- Rất đơn giản. Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản
và nhiều điểm khác.Nhưng tôi hiểu rõ một điều Đệ tam Quốc tế rất chú ý đến vấn
đề giải phóng thuộc địa. Đệ tam quốc tế nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức
giành lại tự do và độc lập của họ. Còn Đệ nhị quốc tế không hề nhắc đến vận mạng
các thuộc địa. Vì vậy tôi đã bỏ phiếu tán thành Đệ tam Quốc tế. Tự do cho đồng
bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất
cả những điều tôi hiểu. Đồng chí đồng ý với tôi chứ?!.
Rô-dơ đồng ý, chị cười và nói:Đồng chí đã tiến bộ.
Những đoạn trích dẫn trên đây đã cho chúng ta biết mấy điều quan trọng như sau:
- Hồ Chí Minh chưa biết gì về chủ nghĩa Mác với tư cách là một học thuyết triết
học-chính trị. Những khái niệm rất tầm thường trong báo chí có khuynh hướng
thiên tả như đấu tranh giai cấp, bóc lột, sản xuất... ông còn chưa hiểu rõ, nói
gì đến những tư biện về lao động tha hoá, gíá trị thặng dư, sứ mệnh giải phóng
của giai cấp vô sản...?
- Đối với chủ nghĩa Lênin ông có biết đến nhưng lại rất hời hợt. Ông chưa đọc gì
về Lênin, ngoại trừ bài Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân
tộc và thuộc địa đăng trên tờ L'Humanité tháng 7 năm 1920 trước Đại hội Tours
vài tháng. Có đọc nhưng thật sự ông cũng chẳng hiểu bao nhiêu, ngay cả các khái
niệm căn bản.
- Ông chọn lựa đi theo Lênin hoàn toàn chỉ vì, qua Đệ Tam Quốc tế, Lênin hứa
giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập. Đó là một chọn lựa
hoàn toàn cảm tính, vội vàng, phiến diện: chủ nghĩa Lênin là một học thuyết toàn
diện về cáh mạng vô sản ở những nước chưa có chủ nghĩa tư bản phát triển, trong
đó vấn đề giải phóng các thuộc địa chỉ là một bộ phận.
Với những thiếu sót trầm trọng như vậy, làm sao có thể gọi được là nghiêm chỉnh
thái độ chọn lựa nói trên của ông?
Tất nhiên không thể không xét đến chuyện về sau, cùng với thời gian hoạt động,
ông đã tiếp cận lý luận cách mạng ngày càng nhiều hơn. Nhưng dù vậy đi nữa thì
cũng không vì thế mà coi sự chọn lựa ấy là tuyệt đối đúng, phải trung thành để
chuyển giao cho các thế hệ mai sau. Có rất nhiều lý do:
- Sau khi Lênin mất, chủ nghĩa Mác-Lênin đã dần dà bị Stalin hoá. Cách mạng vô
sản ở những nước tư bản phát triển thoái trào, chủ nghĩa xã hội ở Liên xô thực
chất là chủ nghĩa tư bản nhà nước, chủ nghĩa vô sản quốc tế chỉ là cái bình
phong bảo vệ Liên xô và sự bành trường của chủ nghĩa dân tộc xô viết.
- Mục tiêu xây dựng một xã hội mác xít có nền kinh tế phát triển cho một xã hội
công bằng và tư do là hoàn toàn ảo tưởng. Các nước lấy Liên xô làm mô hình đều
dẫm chân trong lạc hậu nghèo nàn, còn thể chế chính trị thì chỉ là sự nối dài
của chế độ phong kiến, độc tài. Là vũ khí hiệu nghiệm trong lật đổ và cướp chính
quyền nhưng bất lực trong phát triển.
Sự lựa chọn đường đi của Hồ Chí Minh cho Việt Nam vì vậy là chọn lựa bất toàn:
nó có thể giành được độc lập cho dân tộc qua các hình thức đấu tranh bạo lực,
nhất là chiến tranh, nhưng đã thất bại toàn diện trong xây dựng hoà bình. Điều
này đã được chứng thực rất hiển nhiên qua hơn nửa thế kỷ thực hành. Không thể
coi đó là cái cẩm nang thần kỳ để đưa nhân dân đến cõi hạnh phúc nghìn năm. Cũng
không thể nói bừa rằng ta phải đi theo con đường xã hội chủ nghĩa vì nhân dân ta
đã chọn. Nhân dân ta chẳng biết gì về chủ nghĩa này chủ nghĩa nọ để chọn. Rất
nhiều người chỉ đặt lòng tin vào Bác Hồ nhưng sự chọn lựa của Bác Hồ lại chẳng
có gì gọi được là khuôn vàng thước ngọc cả.
Nhìn lại mọi việc đã xảy một cách bình tâm, chúng ta thấy sự chọn lựa của Hồ Chí
Minh đã bị quy định bởi cái tạng văn hoá sau đây của ông:
- Hồ Chí Minh là một người rất thực tế. Thúc đẩy bởi vấn đề bức xúc của đất nước
là độc lập, ông nhận thấy sự hứa hẹn của Đệ Tam quốc tế là rõ rệt và rất triệt
để, khác hẳn với những thế lực khác (Mỹ, Nhật), nên đã chấp nhận. Đối với ông
chủ nghĩa Lênin thực tế lúc bấy giờ đồng nghĩa với giải phóng dân tộc là vấn đề
quan trọng nhất của Việt Nam. Cái tạng thực tế ấy sau này đã biểu hiện trong
việc lãnh đạo của ông đối với mọi công việc: nói năng, hành động, bao giờ cũng
cố tránh những cái cao xa, trừu tượng.
- Ông cũng lại là một người nhiều tình cảm và lý tưởng. Đọc Lênin, thây gãi đúng
ưu tư của mình, ông đã khóc lên vì vui sướng và tin ngay. Sau này tìm hiểu thêm
thấy chủ nghĩa cộng sản hứa hẹn chấm dứt những khốn khổ của những người lao động
bị áp bức ông càng tin hơn. Khát vọng độc lập cho dân tộc của ông cũng gắn liền
với mong mỏi đấu tranh cho một xã hội công bằng, nhân đạo. Cũng chính vì vậy mà
óc thực tế của ông không trở thành óc thực dụng tầm thường. Ông chọn Lênin vì
con đường giải phóng đất nước mà còn vì nhu cầu có một người thầy, người cha
tinh thần theo kiểu phương Đông để thờ phụng, tôn kính
Tất cả những những thuộc tính trên đây đều đã biểu hiện trong sự chọn lựa nói
trên với những ưu và những nhược điểm của nó. Những người thần phục ông chỉ nói
đến những cái ưu nhưng không hề dám nói đến những cái nhược quan trọng của ông
sau đây: 1) quá vội vàng, không suy xét cẩn thận, cái trí không theo kịp cái tâm
2) trung thành mù quáng với sự chọn lựa ban đầu, không học được tinh thần phản
tỉnh để can đảm nhìn lại toàn diện con đường đã đi.
Những cái ưu của ông đã bộc lộ trong thời hoạt động bí mật, khi còn phải sống
trong dân và phải nhờ dân che chở. Tính chất trong sạch lý tưởng, biết hy sinh
vì nghĩa lớn của những người cộng sản theo con đường của ông hoàn toàn không
phải chỉ là chuyện tuyên truyền. Cũng nhờ thái độ ấy mà Đảng đã được đa số nông
dân ủng hộ, góp sinh mạng và tài sản cho cuộc tranh đấu chung. Việc chiến thắng
nhiều đế quốc hùng mạnh đã từng đến thống trị Việt Nam không đơn thuần chỉ là
vấn đề thủ đoạn, chiến thuật. Trên nhiều mặt, Đảng cộng sản hơn hẳn những lực
lượng chính trị yêu nước khác. Trong thời kỳ bị lệ thuộc, người dân có nhìn vào
ông như kẻ cứu độ thì cũng không có gì đáng ngạc nhiên.
Những nhược điểm của sự chọn lựa của ông đã bộc lộ thật rõ rệt trong thời xây
dựng hoà bình. Đấu tố, cải cách: phá hoại đến tận nền tảng đạo lý dân tôc. Hợp
tác hoá: phản bội nông dân về ruộng đất. Chỉnh huấn: bơm máu đen vào cơ thể
Đảng. Trấn áp, chà đạp trí thức văn nghệ sĩ: phản bội lời hứa về tự do văn hoá.
Khoác lác về cái gọi là dân chủ gấp triệu lần, nhưng lại đè đầu cưỡi cổ nhân dân
một cách rất tự nhiên như những cuờng hào. Làm mất hoàn toàn động lực về phát
triển kinh tế qua chủ trương nhà nước hoá toàn bộ hoạt động sản xuất. Nói chung:
giam hãm dân tộc trong cái ao tù chuyền quyền độc đoán, lạc hậu nghèo nàn.
Những sai lầm trên đây không phải là những tồn tại hoặc những khuyết điểm như
Đảng đã giải thích. Chúng nằm ngay trong sự chọn lựa của Hồ Chí Minh - hợp nhất
quá vội vàng giữa hai vấn đề hoàn toàn khác nhau về bản chất: giải phóng dân tộc
và cách mạng xã hội. Chân giép lốp mà đi vào vũ trụ. Một bên là giép lốp, một
bên là vũ trụ; với giép lốp thì không thể đi vào vũ trụ được, nhưng ta cứ thừa
thắng xốc tới, vì vậy mà bao nhiêu điều tàn tệ đã xảy ra. Cái ý thức hệ
mácxit-lêninít mà Hồ Chí Minh ghép vào chủ nghĩa dân tộc của ông (từ chủ nghĩa
yêu nước đến chủ nghĩa xã hội) đã bộc lộ hết thực chất không tưởng và bất lực
của nó. Trung thành mù quáng, căn cứ vào đó buộc thực tế phải uốn theo, Đảng
cộng sản Việt Nam đã biến sự chọn lựa của Hồ Chí Minh thành vật cản đường cho sự
phát triển tự nhiên của đất nước.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Sự thất bại của mô hình lêninít về phát triển cho những nước nghèo nàn, lạc hậu
là quá rõ ràng. Do sự thúc ép của hàng loạt những nhân tố trong và ngoài nước,
nhất là sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, Đảng cộng sản Việt Nam phải chấp nhận
điều chỉnh đường đi, chuyển nền kinh tế bao cấp, mệnh lệnh hẳn sang kinh tế thị
trường, mở cửa làm ăn với thê giới tư bản. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh đã ra
đời trong tình hình đó như một thích ứng.
Nhưng xét kỹ thì đây không phải là sáng kiến hay ho gì lắm. Hồi Hồ Chí Minh còn
sống, ông đã trả lời nhiều người rằng ông không có tư tưởng gì cả. Nếu có một
người xứng đáng ở Á châu này thì đó chính là Mao trạch Đông (chính vì vậy mà
Điều lệ Đảng Đại hội II đã ghi: chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Mao trạch Đông,
phong cách Hồ Chí Minh). Đối với ông, khi chọn chủ nghĩa Lênin rồi, đó đã là tất
cả, là cái cẩm nang thần kỳ có thể giải quyết được mọi chuyện trên đời, chẳng
cần phải nhọc công tìm kiếm làm gì nữa. Nói do ông khiêm tốn có lẽ chỉ một phần,
chính yếu là do có óc thực tế, ông biết rằng mình không thể nào nắm tóc mình để
tự đưa lên cao được. Gán cho ông điều ông không có và không muốn có, những đệ tử
của ông chỉ làm cái công việc lợi dụng như họ đã từng bất chấp di chúc của ông
khi cho ướp xác và xây lăng cho ông.
Sự lợi dụng đó cũng không phải là đắc sách lắm. Nó chẳng có tác dụng làm cho chủ
nghĩa Mác-Lênin được phát triển hay bổ sung thêm. Đó chỉ là một bước lùi ý thức
hệ đi cùng với bước lùi về kinh tế, hoàn toàn chỉ có ý nghĩa thực dụng: phải tìm
cách làm dịu đi những giáo điều đã bị thời gian chứng minh là không tưởng, bất
lực, sắt máu mà ai cũng biết như công hữu về tư liệu sản xuất, chủ nghĩa tập
thể, đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản, quốc tế vô sản v.v... Và trong khi
né tránh bớt những khái niệm đã mất giá ấy thì một số thuộc tính khác đã được
nhấn mạnh hơn, ồn ào hơn: nào là yêu nước, truyền thống, độc lập, tự chủ, nào là
nhân ái, thân dân, hoà hợp... toàn là những sản phẩm phương Đông và nội địa mềm
mại, dịu dàng không có gì là ngoại lai, khắc nghiệt cả. Cái thủ đoạn thao tác lý
sự ở đây cũng quá rõ ràng: trong hai thành phần được Hồ Chí Minh kết hợp lại
trong sự chọn lựa của mình - chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa quốc tế vô sản - thì
thành phần thứ nhất đã được đưa lên hàng chính diện để làm lu mờ bớt thành phần
thứ hai đi.
Những người có ý hướng cải cách trong Đảng đã nhận ra thủ đoạn này. Họ đã chỉ ra
được cái mưu tính thực sự của những nhà ý thức hệ chính thống: miệng nói Hồ Chí
Minh nhưng hành động vẫn không khác gì Stalin và Mao Trạch Đông, chuyên chế,
khắc nghiệt, giả dối, xảo quyệt. Sự chỉ trích không phải là vô căn cứ: Đảng chỉ
dùng Hồ Chí Minh như cái bung xung chứ chẳng có thật lòng gì cả. Theo những
người cải cách thì thật lòng là phải thay đổi triệt để phương thức lãnh đạo của
Đảng: phải từ bỏ đường lối nửa vời, khập khiễng, từ bỏ hẳn chuyên chính vô sản
và thực hiện dân chủ cho tương xứng với chính sách mở cửa và kinh tế thị trường.
Chỉ với đường lối cải cách triệt để ấy, Đảng mới tạo ra những điều kiện tích cực
để khắc phục những ruỗng nát nội tại, thúc đẩy đất nước phát triển nhanh chóng.
Cũng theo những người cải cách thì sự thay đổi ấy không nằm ở đâu khác ngoài tư
tưởng Hồ Chí Minh đích thực. Trong hình dung của họ, thực chất của Hồ Chí Minh
là phi-Stalin và phi-Mao - một Hồ Chí Minh nhân đạo dân chủ!
Dù cho có ủng hộ cải cách, chúng ta thật khó lòng mà tìm được sự khách quan
trong cách lập luận trên đây: nếu Hồ Chí Minh đối với những nhà ý thức hệ chính
thống chỉ là một hình ảnh giả thì đối với những người cải cách, Hồ Chí Minh cũng
không thật là bao nhiêu. Sự khác nhau giữa hai quan điểm chỉ là sự khác nhau về
cách khai thác hai khía cạnh trong sự chọn lựa của Hồ Chí Minh: một bên nghiêng
về phần quốc tế và vô sản, một bên lại nghiêng về phần quốc nội và dân tộc; một
bên nghiêng về phần chuyên chính vô sản thì bên kia lại muốn loại bỏ nó. Cả hai
đều làm biến dạng đi một Hồ Chí Minh đích thực: một người Việt Nam yêu nước,
nhưng cũng là một người Việt Nam yêu nước theo phương thức của Lênin, một người
đã có đem lại cho đất nước sự tự chủ và thống nhất nhưng cũng lại là một người
đã cho du nhập vào đất nước một học thuyết ngoại lai mà tác hại của nó còn kéo
dài cho đến ngày nay chưa gỡ bỏ được.
Có thể cho rằng lập luận của những người cải cách chỉ là một cách trình bày mang
tính chất kỹ thuật tranh đấu trong hoàn cảnh không có tự do tư tưởng, và nếu như
vậy thì có lẽ sẽ không cần bàn luận thêm. Nhưng nếu trong chúng ta có ai thành
thật tin rằng với chủ trương ấy, đất nước sẽ bước vào được một chế độ dân chủ
hiểu theo nghĩa hiện đại thì chắc chắn sẽ có không ít người lên tiếng bày tỏ sự
nghi ngờ: giả sử như có gạt đi hết tất cả những phần ngoại lai, ảo tưởng của Hồ
Chí Minh về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội theo kiểu Lênin, thì Hồ Chí Minh
vẫn không thể là ngọn cờ dân chủ được.
Ý kiến này thật đáng suy nghĩ. Mặc dù Hồ Chí Minh có nói nhiều đến dân chủ,
nhưng quan niệm của ông vẫn rất xa lạ với cái nội dung mà Thời Hiện Đại đã sản
sinh ra nó, đặc biệt là cái tính chất giao ước trần tục của sự phân chia và kiểm
soát quyền lực, căn cứ vào đó tổ chức và quản lý đời sống công cộng. Ông không
biết gì đến tính chất độc lập của xã hội công dân đối với nhà nước, và ông cũng
không hiểu tính chất quyết định làm nên nhà nước hiện đại là nhà nước phi thiên
mệnh, nhà nước sinh ra từ pháp luật và tồn tại bằng pháp luật. Quan niệm của ông
về mối tương quan giữa nhà nước và nhân dân vẫn là quan niệm của Nho giáo lý
tưởng; cái loại nhân dân mà ông yêu mến vẫn chỉ là loại xích tử cần phải được
dạy dỗ về luật trời và phép nước đồng thời lại phải biết lo cho họ về những
chuyện tương cà mắm muối để sống trong yên ổn; còn nhà nước theo quan niệm của
ông vẫn chỉ là thứ nhà nước của những người hiền, những bậc minh quân kiểu vua
Nghiêu vua Thuấn đời xưa. Những gì ông nói về pháp chế xã hội chủ nghĩa hoặc cán
bộ là đầy tớ của nhân dân cũng đều dựa trên cơ sở ấy. Chúng chỉ là những ý định
tốt của những đấng, những bậc bề trên.
Sở dĩ ông chọn chủ nghĩa Lênin một cách vội vã và vô điều kiện như ta đã biết có
lẽ là do ông đã trực giác được tính chất bên trên của cách mạng vô sản lêninít
trong việc làm lại nước Nga với những tàn dư nặng nề của thời trung cổ. Là người
dân chủ, hiểu rõ học thuyết Mác, nhưng tình thế đã buộc Lênin làm ngược lại tất
cả nhưng gì mà Mác đã hình dung ra cho xã hội tương lai: thay vì để cho giai cấp
vô sản tự mình trở thành nhà nước như trong Công xã Paris 1871 thì nhà nước xô
viết lại phải đảm đương công việc giáo dục và tổ chức lại cái giai cấp vô sản đã
tan tác và mất hết tính chất tiền phong sau cách mạng và nội chiến. Dự định khởi
đầu là một lãnh tụ dân chủ vô sản vượt xa nền dân chủ tư sản hàng triệu lần,
cuối cùng, Lênin thừa nhận đã phải theo gương của một ông vua của thế kỷ 18 -
Pierre Đại Đế - công khai dùng độc tài để chống lại dã man, lạc hậu.
Cảm nhận của Lênin về sự không ăn khớp giữa chủ nghĩa Mác hậu hiện đại và nước
Nga tiền hiện đại, Hồ Chí Minh hoàn toàn không hề biết đến, ông chỉ thấy trong
những hành động độc tài của Lênin trách nhiệm tự nhiên của những minh quân thời
trước, nay được hiện đại hoá qua khái niệm chuyên chính vô sản của Đảng cộng
sản: đó là một nền chuyên chế nhân đức và cách mạng, một nền chuyên chính vì
nhân dân chứ không phải là cái gì khác. Cái lôgích của vấn đề ở đây vẫn là cái
lòng tốt từ trên ban xuống. Muốn đựơc giải phóng, muốn có quyền lực, nhân dân
phải hết lòng đi theo Đảng. Đại biểu cho quyền lợi lâu dài của nhân dân, Đảng
được phép làm tất cả để tạo dựng nên cuộc đời mới cho họ. Sự chuyên chính của
Đảng là sự chuyên chính của đám đông, của chính nghĩa, của khoa học, của chân
lý, của cách mạng. Vì vậy phải tập trung quyền lực vào Đảng một cách tuyệt đối
và vĩnh viễn, không chia với bất ai, không nhân nhượng với ai một mẩu xác tín
nào về chân lý, ai có ý đi ngược lại thì chỉ là những lý lẽ của bọn thù địch với
nhân dân cần phải thẳng tay trừng trị.
Với một quan niệm về quyền lực sắt thép như vậy, Lênin đã dọn đường cho Stalin
vắt cạn sức lực của người dân để nhanh chóng đưa nước Nga vào con đường công
nghiệp hoá, còn Hồ Chí Minh cùng với Đảng cộng sản đã tích tụ được những hy sinh
vô hạn của nhân dân để đánh bại nhiều thế lực xâm lược hung hãn, giành lại độc
lập thống nhất cho Việt Nam. Nhưng còn về dân chủ, cùng với bao nhiêu thứ khác
nữa mà các Đảng cộng sản đã hứa sẽ đem lại cho nhân dân trước đây như bình đẳng,
tự do, hạnh phúc v.v... tất cả đều vẫn chỉ là những lời hứa, và tệ hơn nữa, về
sau này đã biến thành những lời dối trá đơn thuần. Chuyên chính vô sản, chuyên
chính nhân dân bây giờ đã trở thành chuyên chính với giai cấp vô sản, chuyên
chính với nhân dân. Hiện tượng suy thoái này, vào cuối đời mình Lênin đã mơ hồ
nhận ra như một bi kịch, nhưng ở Hồ Chí Minh, mọi việc dường như đã êm xuôi như
ván đã đóng thuyền, cứ thế lướt sóng mà đi, từ bây giờ cho đến cả muôn đời con
cháu mai sau!
BÀI HỌC CỦA NGƯỜI ANH HÙNG
Gần một thế kỷ đã qua, cùng với những biến chuyển lớn lao trên thế giới và đất
nước, hình ảnh Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam đã không còn như xưa nữa.
Tính chất lý tưởng, cao vời mà Đảng cộng sản đã cố sức tô vẽ cho một Hồ Chí Minh
thần thánh đã không chống đỡ nổi cho những sự việc tầm thường, sai lầm của một
Hồ Chí Minh thực tế: càng cố thần thánh hoá ông bao nhiêu lại càng gây ra tác
dụng ngược lại bấy nhiêu. Thoả đáng nhất là nhìn ông với những gì ông có, một
cách hiện thực.
Mặc dù tên tuổi của Hồ Chí Minh gắn liền với những gì làm nên cái gọi là Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay, thiết nghĩ không nên đồng hoá tên ông
với toàn bộ chế độ. Thế giới đã có những kinh nghiệm tương tự. K. Marx không
phải là không có liên quan đến cái thực thể gọi là chủ nghĩa xã hội ở Liên xô,
nhưng đổ mọi sai lầm của Liên xô lên đầu K. Marx là hoàn toàn không đúng. Mối
quan hệ giữa Lênin và Stalin cũng có những điểm cần phân tích theo chiều hướng
đó. Trường hợp Hồ Chí Minh đối với chế độ chính trị hiện tại ở Việt Nam có đặc
biệt hơn nhưng cũng cần biết rằng hình ảnh của ông đã bị chế độ tô vẽ bằng mọi
cách để huyễn hoặc quần chúng.
Cũng đừng quên rằng những gì làm nên đặc trưng của Hồ Chí Minh là vai trò của
ông trong thời kỳ chống ngoại xâm, một giai đoạn lịch sử rất đặc biệt của thế kỷ
20, giai đoạn mà việc đấu tranh giành độc lập không thể tách rời việc chọn lựa
một ý thức hệ. Cần chú ý ghi nhận đặc biệt này: trong khi vấn đề độc lập là quá
rõ ràng về ý nghĩa thì vấn đề ý thức hệ trong thời hiện đại lại chứa đầy cạm bẫy
và phức tạp. Những cái hay cái dở không phải lúc nào cũng hiển hiện ngay từ đầu.
Những gì tạm thời chưa được chấp nhận chưa hẳn đã sai, những gì mang đến thắng
lợi chưa hẳn đã là đúng. Hơn nữa, sự sai/ đúng cũng không phải lúc nào cũng như
nhau: đúng lúc này có thể sai lúc khác; xem tất cả sự sai/ đúng một cách trừu
tượng, bất dịch rồi căn cứ vào đó để tâng bốc quá trớn hoặc kết án nghiệt ngã -
một lần là xong - là quá đơn giản. Thái độ ấy không thích hợp cho những tiếp cận
khách quan về lịch sử.
Nhìn tổng thể về thế kỷ 20, tôi cho rằng Hồ Chí Minh là một anh hùng lớn của
Việt Nam trong thời kỳ chống các thế lực thực dân. Những gì mà thế giới biết đến
Việt Nam một cách tích cực cho đến nay vẫn là sự kiện Hồ Chí Minh đánh bại các
thế lực xâm lược hiện đại, giành được độc lập cho dân tộc. Thiết tưởng dù chính
kiến và tình cảm có khác nhau như thế nào đi nữa người ta cũng không thể phủ
nhận được tính chất hiển nhiên của các sự kiện ấy. Có thể với nhiều người ở
những nơi nào đó, cái chuyện đánh nhau giành độc lập ấy thật sự chẳng có gì quan
trọng lắm đối với cuộc sống, nhưng đối với đông đảo những người Việt Nam, từ xưa
cho đến nay, điều đó lại là một trong nhiều lý do để sống, không thể coi như
không có.
Thời trai trẻ, tôi quý trọng Hồ Chí Minh là do ông đã tô đậm cái tình cảm tự
nhiên đó trong tôi để tôi biết trách nhiệm với đất nước. Nhưng cũng chính vì
tình cảm và trách nhiệm ấy mà khi tóc đã bạc rồi, tôi không còn có thể mù quáng
tin vào ông nữa. Hồ Chí Minh chỉ là một nhân vật của lịch sử, còn đất nước là
chuyện của muôn đời: không thể cột chặt vận mệnh đất nước vào sự chọn lựa bất
toàn của một con người, dù đó là một anh hùng. Tốt nhất vẫn là ghi nhận tất cả
những chuyện đúng sai của ông một cách bình thản, hy vọng chỉ có như thế mới rút
ra được những bài học hữu ích cho những thế hệ đi sau.
Đối với tôi, sự chọn lựa ý thức hệ cho đất nước của Hồ Chí Minh là bài học đáng
suy ngẫm hơn cả. Tất cả đều là những ý định tốt đẹp nhưng tất cả đều thiếu cái
chiều sâu của sự phản tỉnh triết học. Là sự chọn lựa vội vàng từ đầu và cũng là
sự trung thành mù quáng về sau. Lầm lũi đi theo ông, giắt theo mình cái gói hành
trang của những ý định tốt đẹp ấy, không biết thường xuyên quay đầu nhìn lại,
không có gì bảo đảm để chúng ta không vấp lại những sai lầm của ông - đẩy cái
đám đông nhân dân mà minh muốn đưa lên thiên đàng xuống chín tầng địa ngục! Nhất
là những ý định tự cho là duy nhất đúng đắn, cần được bảo vệ quyết liệt bằng một
định chế quyền lực cũng tự cho là duy nhất đúng đắn.
Tôi nghĩ rằng bài học ấy không chỉ đáng suy ngẫm cho những người xưng tụng ông
mà còn cho cả những người chống ông nữa.