Nói chuyện với TS Phạm Bích Hợp
Nếu buổi ra mắt Trung tâm Nghiên cứu Tâm lý Dân tộc tiến hành trong một phòng họp lớn của khách sạn Tây loại xịn "Continental" giữa TPHCM thì ngược lại, trụ sở của Trung tâm lại chỉ là căn phố xinh xắn nằm trong một con hẻm đường Nguyễn Thị Minh Khai. Ðó cũng là nhà riêng của chị (tôi không muốn dùng chữ "bà" dễ khiến người ta hình dung sai về người nữ giám đốc tuổi quý tỵ này), nơi tôi thực hiện cuộc trao đổi sau nhiều lần thuyết phục chị nhận lời. Người phụ nữ đầy bản lĩnh (dám làm) và tài năng (làm được) đã lập nên một cơ sở nghiên cứu khoa học xã hội tư nhân đầu tiên ở nước ta, vẫn còn "hơi bị ngại" báo chí ở thời điểm tròn một tuổi của đứa con tinh thần (sợ bị "quở quang" chăng?). Vả lại, sang năm là "năm tuổi" của chị...
Thuận Thiên: Bản sắc dân tộc,
văn hóa dân tộc, tâm lý dân tộc, ... các hội thảo ăn theo
hai chữ "dân tộc" nở rộ như hoa xuân... Trong chuyện mở
ra Trung tâm Nghiên cứu Tâm lý Dân tộc này có gì là "sản
phẩm theo mùa" không, thưa chị?
Phạm Bích Hợp: Chẳng theo mùa
mà cũng chẳng có ý nghĩa gì sâu xa. Chỉ xuất phát từ một
say mê hứng thú cá nhân. Từ những năm 1973-1974, lúc còn là
cô sinh viên khoa Sử 20, 21 tuổi, tôi đã quan tâm đến những
chuyện mà lúc đó mình chưa hiểu bao nhiêu. Chẳng hạn như
tại sao ở Trung Quốc người ta phát động "chiến dịch bắt
chim sẻ"? Về sau tôi biết rằng những vấn đề tâm lý chính
trị như thế, thực chất là vấn đề tâm lý dân tộc. Sau
năm 1980, vào TPHCM, tôi học tiếng Pháp và được đọc nhiều
sách của người Pháp nghiên cứu về các dân tộc thuộc địa,
tôi trở nên mê bộ môn này. Rồi từ trường phái Pháp, tìm
hiểu qua trường phái Ðức, Mỹ, tôi quyết định chọn con
đường nghiên cứu tâm lý dân tộc. Nhưng ở nước ta chưa
có chuyên ngành này, tôi phải học Cao học Tâm lý học rồi
Cao học Dân tộc học riêng rẽ với nhau. Sau hàng chục năm
tích lũy tư liệu và suy nghĩ, tôi công bố công trình mà mình
mong muốn trở thành sách dạy ở bậc cử nhân "Tâm lý dân
tộc, tính cách và bản sắc". Ðợi mãi chưa biết bao giờ
đại học của ta mới mở chuyên ngành tâm lý dân tộc, tháng
12 năm 1999, với sự hưởng ứng của nhiều nhà khoa học xã
hội, tôi nộp đơn lên Sở Khoa học - Công nghệ - Môi trường
TPHCM xin phép mở rộng Trung tâm, và được chấp nhận.
TT: Cho đến nay nhiều người còn
thắc mắc: sao có thể có một cơ sở tư nhân nghiên cứu
về lĩnh vực dễ "đau đầu" thế nhỉ? Chắc bà giám đốc
có "gốc" lớn lắm về chính trị, kinh tế? Lại có người
đoán già, đoán non: tâm lý dân tộc đang là món hàng thời
thượng, chắc là ... bán được lắm?
PBH: Chính tôi lại thắc mắc tại
sao nhiều người gặp tôi cứ úp mở hỏi có phải tôi là
cơ sở của ... công an, hoặc ngược lại, cơ sở của ...
nước ngoài? Tôi xin phép mở trung tâm theo đúng các quy định
hiện hành. Tiền thì dựa vào ... túi của bản thân và gia
đình, trí lực thì dựa vào bạn bè, các nhà nghiên cứu.
Còn bán ư? Dĩ nhiên sản phẩm trí tuệ cũng là hàng hóa,
nhưng hiện tại thì chưa bán được. Công trình đầu tiên
của trung tâm là cuốn sách tập hợp những bài viết tham
dự cuộc tọa đàm "Tâm lý người Việt Nam nhìn từ nhiều
góc độ" in có 1.000 cuốn, bán chưa đủ chi phí. Hai đề tài
nghiên cứu đăng ký với TP. Hồ Chí Minh: "Tìm hiểu tâm lý
người dân trong chủ trương thực hiện cải cách hành chính
của TPHCM", "Nghiên cứu nguồn gốc tâm lý và xã hội của
một số thói quen xấu đang gây tổn hại nặng nề đến bộ
mặt văn minh đô thị; đề xuất các giải pháp cụ thể và
hữu hiệu nhằm từng bước xóa bỏ triệt để các hành vi
đó, phục vụ cho công tác quản lý đô thị của thành phố",
người xét duyệt khen "hay", nhưng ... không duyệt vì ..."không
đúng hướng" (?). Tôi cũng đang đợi trả lời của Bộ Khoa
học - Công nghệ - Môi trường về đề tài "Khả năng thích
ứng tâm lý của người Việt Nam vào quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa". Song trung tâm của tôi hoàn toàn không
bị trói buộc bởi chuyện lý tài vì xuất phát của nó là
nhu cầu tinh thần của bản thân, và chừng mực nào đó tôi
cũng muốn tham gia làm rõ hơn tâm hồn VN để thấy những
gì nên củng cố, những gì phải thay đổi. Tôi đã đi nghiên
cứu nhiều vùng, tôi thấy ở nhiều nơi người dân chịu
nghèo khổ, bất công một cách vô lý, chính vì không hiểu
được chính mình.
TT: Thời gian qua, để hiểu mình
chúng ta có xu hướng gọi là "về nguồn", nhưng trong xu hướng
ấy ngày càng có thể thấy rõ sự tôn vinh một chiều
quá khứ, sự hạn chế của khẩu hiệu "bảo vệ bản sắc",
sự lạm dụng "văn hóa làng". Có người đã nhận xét: Chưa
bao giờ bài thơ "Chân quê" của Nguyễn Bính lại thời thượng
như bây giờ!
PBH: Tôi cho đó chỉ là một phản
ứng tâm lý hơi có màu sắc hoảng hốt trước những cái
mới mà mình chưa mường tượng, định hình được; đó cũng
là một nét tâm lý dân tộc, hậu quả của tình trạng khép
kín mấy nghìn năm. Tôn trọng quá khứ là đúng đắn, nhưng
khư khư ôm lấy quá khứ là khiên cưỡng và duy ý chí. Những
cái đang diễn ra cũng góp vào sự hình thành truyền thống
và sẽ trở thành truyền thống trong tương lai. Cũng có những
tâm lý mang tính tích cực trong hoàn cảnh quá khứ, nhưng có
thể trở thành hạn chế cho sự phát triển đất nước hôm
nay. Theo tôi, có lẽ thái độ đúng đắn nhất là tôn trọng
sự thực khách quan, tự tin để xây dựng và đón chờ
cái mới.
TT: Cuộc hội thảo mới đây mà
Trung tâm tổ chức khá thành công ở Hà Nội đã tập trung
vào chủ đề "Tâm lý dân tộc và phát triển", những vấn
đề tâm lý nào được các nhà nghiên cứu mổ xẻ nhiều
nhất?
PBH: Ba chủ đề được trao đổi
nhiều nhất, nhiều ý kiến tranh luận sôi nổi. Tôi chỉ xin
tóm lược một số ý kiến nổi bật.
1. Vai trò của cá nhân và mối quan hệ của cá nhân với cộng đồng. Theo Phó giáo sư Tiến sĩ Tâm lý - Viện trưởng Viện Tâm lý Ðỗ Long, "tính cá nhân, ý thức cá nhân cần được xem xét như một động lực phát triển, nhưng cái tôi của người Việt Nam chưa được xác định, chưa tách bạch với cộng đồng, chính vì thế cá nhân không có điều kiện phát triển và đóng góp vào sự vận động của xã hội, mà đôi khi còn trở thành cản ngại cho sự phát triển". Luật sư Nguyễn Ngọc Bích cho rằng: "Cơ chế xã hội coi trọng tập thể hơn cá nhân nên đã làm lu mờ cá nhân, xóa nhòa tinh thần trách nhiệm cá nhân... Tóm lại, con người cá nhân chân chính của chúng ta chưa mạnh nên rất khó chiến thắng chính bản thân mình để góp phần phát triển đất nước". Nhưng từ một góc độ khác, đạo diễn Ðỗ Minh Tuấn lại cho rằng người Việt Nam có cái tôi rất lớn, chính ý thức về cái tôi đó đã tạo ra hàng loạt các "ông vua" hiện nay!2. Vai trò của người trí thức. Nhà báo Nguyễn Văn Thành đặt vấn đề đầu tiên với hàng loạt câu hỏi: Việt Nam có giới trí thức hay không? Họ là ai? Họ có vai trò gì trong lịch sử hay chỉ đứng sau các nhà chính trị? Liệu sắp tới, họ có chiến thắng được nỗi ngại ngùng để góp phần giải đáp các vấn nạn của xã hội? Ngay lập tức rất nhiều ý kiến được đưa ra, phần lớn đều thống nhất cho rằng Việt Nam mới chỉ có sĩ phu chứ chưa có trí thức, họ là những viên chức ngày nay, giống như quan lại ngày xưa, họ chưa có vai trò độc lập tự do để thực hiện những ý tưởng, những khát vọng của giới mình. Ngoài ra, các khái niệm về "tự do tư tưởng và liêm khiết trí tuệ", "tháp ngà và dấn thân", tương quan giữa "tri và hành, thiện và ác" ... cũng được đua ra trao đổi sôi nổi. Ý kiến của linh mục Thiện Cẩm rất đáng quan tâm, khi ông cho rằng: "Người trí thức chúng ta cũng như những cây nến nhỏ, vấn đề là chúng ta cần phải biết kết lại để trở thành một ngọn đuốc sáng tỏa đến mọi nơi chứ không phải chỉ là phương tiện cho những ai đó muốn dùng để soi tới những nơi họ cần".
3. Thực và giả. Giáo sư Phan Ðình Diệu đã đưa ra lời khái quát rất đúng rằng: "cái giả chẳng những đang là một thói quen mà còn trở thành một đạo lý". Trên diễn đàn, trong hội nghị, ở nhà trường ... lắm khi người ta nói giả hơn là nói thật và hài lòng với việc cùng nhau che đậy những sự thật ai cũng biết nhưng chẳng ai nói ra. Tinh thần tôn trọng sự thật có lẽ là một giá trị thấp kém nhất trong đời sống tâm lý của không ít người Việt Nam hôm nay, trong khi nó lại là cần thiết để đồng thuận và phát triển. Bởi vì người ta chỉ có thể đồng thuận trên căn bản cùng thừa nhận những sự thật. Và sự phát triển tự nó không thể chấp nhận một tình trạng vờ vịt làm giả vờ và nói dối lẫn nhau. Cũng đã có một vài chính khách tung ra lời kêu gọi "hãy nhìn thẳng vào sự thật", nhưng sau đó sự thật vẫn là cái người ta biết rõ nhưng lại tự thấy nên tránh là hơn. Nếu không vượt qua được nghịch lý này thì không thể nói đến lòng tự tin và tự trọng cho chúng ta và cho con em chúng ta. Bởi vì trọng sự thật là thước đo đầu tiên của lòng tự trọng.
TT: Từ góc độ tâm lý dân tộc,
chị nhìn thế nào về khả năng thích ứng của người Việt
Nam trước triển vọng "toàn cầu hóa"?
PBH: Thì ta cứ coi đó như một
hiện tượng tất yếu. Tôi tin là với trí thông minh vốn
có của con người Việt Nam, chúng ta sẽ tìm ra cách thức
để chung sống với nhiều hiện tượng chứ không chỉ hiện
tượng ấy. Ta cứ nhẹ nhàng, chẳng cần quan trọng hóa, ta
cứ chủ động chuẩn bị xây dựng đường lối của mình
để thích ứng và điều chỉnh những sự quá đà.
TT: Xin cảm ơn chị giám đốc.