Một người ấy đã ra đi
Người ấy được biết đến trong bài thơ "viết rồi hãy còn say" của Nguyễn Vỹ vào đầu thập niên ba mươi thế kỷ hai mươi. Người ấy và bạn từng mong có phen múa bút tung gươm "cho người làm ruộng, kẻ làm công, đều được an vui hớn hở lòng". Người ấy và bạn từng ôm ấp chí lớn "quét sạch quân thù trên đất nước"
Ðể cho toàn thể dân Việt NamNhưng hoàn cảnh đã không chiều người, những ước mơ mong muốn đã bị thực tế cuộc sống phũ phàng dập tắt. Người ấy và bạn đã sa cảnh "cờ cao gặp vận bĩ". Chí trượng phu rút lại là "làm báo làm bung chán mớ đời". Nguyễn thi sĩ than cho thân phận mình và bạn mình:
Ðều được tự do muôn muôn năm
Ðể cho muôn muôn đời dân tộc
Hết đói rét, lầm than tang tóc.
Nhà văn An Nam khổ như chó!Bài thơ Nguyễn Vỹ gửi bạn là viết cho người ấy, viết về người ấy, nhưng hơn thế, "lời thơ thống thiết, uất ức, đủ dãi nỗi bi phẫn cho cả một hạng người", nói như Hoài Thanh. Nhà phê bình viết tiếp: "Một hạng người nếu có tội với xã hội thì cũng có chút công, một hạng người đã đau khổ nhiều lắm, hạng sống bằng nghề văn. Hãy cho là họ không có gì xuất chúng đi thì ít nhất họ cũng đã nuôi những giấc mộng to lớn khác thường. Nhưng đời không chiều họ; đụng vào sự thực, những giấc mộng của họ đều tan tành và lần lượt họ bỏ thây ở dọc đường hay trong một căn phòng bố thí". Bài thơ của Nguyễn Vỹ và lời bình của Hoài Thanh như đã tiên cảm số phận của người ấy.
Mỗi lần cầm bút viết văn chương
Nhìn đàn chó đói ngậm trơ xương
Rồi nhìn chúng mình hì hục viết
Suốt mấy năm trời kiết vẫn kiết
Mà thương cho tôi, thương cho anh
Ðã rụng bao nhiêu mớ tóc xanh.
Người ấy viết văn, viết phê bình, dạy học, hoạt động xã hội. Say sưa, hăng hái, quyết liệt, thẳng thắn - đó là văn phong người ấy. Tuyên bố "một quan niệm về văn chương" từ năm 1937, người ấy viết:
"Không có gì giúp người cầm bút đủ tự hào để phấn đấu, đủ can đảm để thắng, đủ an ủi để ngã, bằng nhận thấy rằng trong các công trình phá hoại và kiến thiết vinh quang nhất của xã hội loài người, bao giờ nhà văn cũng đứng mạnh dạn vào hàng ngũ tiên phong. Bao giờ nhà văn cũng vui vẻ, hăng hái giữ nhiệm vụ tên lính cảm tử phất cao ngọn cờ tranh đấu, dắt xã hội chạy tìm những chân trời mới và đẹp trên con đường gay go của hạnh phúc.Người ấy tinh tế khi phân tích những chữ thần trong thơ Tản Ðà, như chữ "chơi" ở bài Tống biệt, chữ "mờ" ở bài Mả cũ bên đường, và chữ "tà tà" ở bài Cảm thu tiễn thu, để bạn đọc thấy rõ "cái tài lỗi lạc của người kỹ sư điều khiển cái máy từ ngữ Việt Nam". Người ấy hùng hồn áp dụng biện chứng pháp duy vật vào nghiên cứu Truyện Kiều những mong khám phá ra "cái thể cách truyền cảm đặc biệt, cái cấu tạo đặc biệt" của kiệt tác dân tộc này. Người ấy năm 1938 báo động "Thanh niên S. O. S", năm 1940 "Thắp hương chờ đợi thế hệ nhà văn mới", năm 1943 nghiên cứu "Nguồn gốc văn minh", năm 1945 nghĩ về "Tương lai văn nghệ Việt Nam", năm 1946 dịch "Tuyên ngôn Ðảng Cộng sản", năm 1956 "Chống văn học đồi trụy của Mỹ", năm 1958 bút chiến "Mấy vấn đề quan điểm phi vô sản trong văn nghệ" Người ấy suy nghĩ, kiến giải đôi khi cực đoan, khiến tranh luận, về các vấn đề lịch sử và văn hóa nước nhà. Hùng hồn, lớn tiếng, người ấy buộc được mọi người vào cuộc với mình trong các câu chuyện học thuật.
Mỗi khi hai lực lượng thuận và phản tiến bộ xung đột nhau, báo tin những giông tố hãi hùng, nhà văn, nhờ một linh khiếu - một trực giác - đặc biệt, lập tức dẫn đạo tư tưởng của đoàn thể đi vào cuộc tranh đấu và không bao giờ quên ủng hộ mặt trận nào hy sinh để làm toàn thắng lý tưởng và hạnh phúc. Giờ phút ấy nhà văn hòa vận mạng mình vào vận mạng của xã hội tương lai, viết bằng chữ máu vào trang giấy sáng sủa của thế kỷ một lời tiên tri, loài người sắp đi thêm được một bước".
Người ấy đã thành chứng tích của một thời, ngay lúc đang sống; thành vang bóng, khi còn hiện hữu. Người ấy, ở độ tuổi 45, đã rời bỏ cây bút để cầm lấy cây kim châm, cởi áo giáo sư khoác áo thầy lang.
Người ấy đã trút hơi thở cuối
cùng vào những ngày cuối cùng năm cuối cùng thế kỷ cuối
cùng của thiên niên kỷ Một tính theo buổi ra đời Jesus Christ.
"Khi chiếc yếm rơi xuống", người ấy đã ra đi. "Những thí
nghiệm của ngòi bút tôi", người ấy đã không chờ kịp
nữa.
Một người ấy đã ra đi, đông
này, Hà Nội.
Người ấy cất tiếng chào đời
năm 1913.
Người ấy - đó là nhà văn, giáo
sư Trương Tửu, tức Nguyễn Bách Khoa.
Cũng lại là Nguyễn Vỹ hiểu đúng
nhất con người Trương Tửu:
"Trương Tửu có khiếu ngôn ngữ và lý luận. Lời nói của anh là một sản phẩm của máy móc, lý luận của anh là một dây chuyền ngôn ngữ phối trí chặt chẽ, liên kết mạch lạc, và rèn giũa với một nghệ thuật tinh vi tế nhị. Anh là một nhà hùng biện bẩm sinh. Với rất ít, anh xây dựng rất nhiều. Với một chấm nhỏ nảy ra từ hình thức của sự vật, anh kéo một đường thẳng tới tư tưởng vô cực. Anh là một nhà toán học chống giáo lý, đi tìm một bài toán cho nhân sinh, với những công thức do tự anh chế biến ra; không theo công thức điển hình nào cả. Và không bao giờ anh làm đúng, ít khi anh nói phải, nhưng luôn luôn anh có lý. Với anh, sai lầm chống chân lý, và luôn luôn sai lầm chống chân lý. Anh luôn luôn tự mâu thuẫn với anh một cách rất là hợp lý. Giả sử Trương Tửu mơ mộng một tí, thì những ý tưởng của anh sẽ đượm chút tinh hoa của lý trí thiêng liêng".Thôi, người về, "đời còn nhố nhăng ta chịu vậy".