Tháng 12 năm 1994, nhà xuất bản Association de l'Archipel tại Paris phát hành tuyển tập thứ 25 của hội, cuốn sách biên khảo song ngữ Pháp-Việt, tựa đề Phan Huy Chú Hải Trình Chí Lược -Récit sommaire d'un voyage en mer 1833- do Phan Huy Lê, Claudine Salmon và Tạ Trọng Hiệp dịch và giới thiệu. Ðây là một công trình biên khảo nghiêm túc hiếm có, với sự cộng tác Pháp Việt.Cuốn sách chia làm ba phần. Phần đầu về cuộc đời và sự nghiệp của Phan Huy Chú. Phần thứ nhì về Nhãn quan phái viên đi Hạ Châu. Và phần thứ ba là bản dịch tập du ký Hải Trình Chí Lược của Phan Huy Chú, với phần chú giải quan trọng.
Phan Huy Chú sinh năm 1782, mất năm 1840, là tác giả tập Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, bộ bách khoa toàn thư đầu tiên và có giá trị hàng đầu về lịch sử và văn hóa Việt Nam. Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí được Phan Huy Chú soạn trong 10 năm, làm nhà trong núi Sài Sơn, đóng cửa tạ khách, từ tuổi 27 đến tuổi 37. Tác phẩm này đã đưa Phan Huy Chú lên vị trí nhà bác học lớn của Việt Nam. Trong phần cuộc đời và sự nghiệp của Phan Huy Chú, không những người đọc được biết về điều kiện làm việc và quan lộ của Phan Huy Chú, với những nét mới chưa được công bố từ trước đến giờ, về tiểu sử của ông, về dòng họ Phan Huy, sự kết hợp với dòng họ Ngô Thì, hai dòng họ có truyền thống văn học lớn vào bậc nhất nước Việt thời ấy.
Về phần nhãn quan của phái viên đi Hạ Châu, các dịch giả và soạn giả dẫn giải về bối cảnh lịch sử, chính trị, kinh tế và địa lý của các chuyến đi sứ dưới thời nhà Nguyễn, bắt đầu từ đời Minh Mạng, về vùng Hạ Châu, tức là vùng Nam Dương quần đảo. Vì chuyến đi Âu Châu năm 1840 đã không thành công, các sứ giả không được Paris và Luân Ðôn tiếp kiến, nên triều đình Huế đã phái người đi Hạ Châu để tìm hiểu những hoạt động kinh tế, chính trị và quân sự của Tây phương.
Trong phần dịch Hải Trình Chí Lược, người đọc được biết về nội dung chuyến đi, qua lời tường thuật của học giả Phan Huy Chú. Lộ trình bắt đầu từ Ðà Nẵng, qua Ðèo cả, xuống Mũi Né - Phan Thiết, tới Singapour tức Tân Gia Ba, rồi dọc theo đảo Sumatra tới thủ đô Batavia nằm trên đảo Java. Và người đọc còn được mở rộng tầm nhìn về bối cảnh lịch sử và văn hóa Việt Nam trong sự giao tiếp giữa Việt Nam và các vùng lân cận, ở thế kỷ XIX.
Sau cùng là những địa đồ, tranh ảnh, minh họa được lựa chọn kỹ càng cho cuốn sách. Ðiều mà chúng ta thường thấy rất thiếu trong các công trình nghiên cứu sử địa của Việt Nam từ trước đến giờ.
Chúng tôi trân trọng giới thiệu cuốn sách giá trị và hiếm hoi này với độc giả. Và giáo sư Tạ Trọng Hiệp, một trong ba soạn giả của cuốn sách, sẽ nói chuyện với chúng ta hôm nay về bối cảnh mở cửa của nhà Nguyễn ra nước ngoài, cách đây hơn 100 năm.
*
* *
Thụy Khuê: Thưa anh Tạ Trọng Hiệp,
trong trường hợp nào tập du ký Hải Trình Chí Lược của
Phan Huy Chú đã được dịch, chú giải và in thành sách?
Tạ Trọng Hiệp: Tôi cùng với hai bạn đồng nghiệp
được may mắn tìm ra một tài liệu mà trong rất nhiều thời
gian nghiên cứu đã săn tìm mà không thấy: Trong thời gian
hơn một thế kỷ nay, có dấu vết ghi rằng trong chuyến công
du cho vua Minh Mạng sang Batavia thì Phan Huy Chú, khi về, có trình
lên vua một tập du ký nhan đề là Hải Trình Chí Lược. Từ
đó đến nay, không ai có dịp nhìn thấy văn bản tập du ký
này. Có thể, vì trong những năm chiến tranh, khó mà xúc tiến
việc tìm kiếm. Năm 1962, cụ Trần Văn Giáp, bây giờ đã
qua đời rồi, có giới thiệu một bản chép đầy đủ tài
liệu đó. Nhưng năm 1962, Việt Nam cũng còn đang rắc rối
cho nên không ai chú ý lắm. Tôi có chú ý nhưng không có cách
nào để xin một bản chụp tài liệu đó được. Thế rồi
hai chục năm sau, nhân chuyến gặp gỡ nhà sử học Phan Huy
Lê, bà bạn đồng nghiệp của tôi là Claudine Salmon và tôi
có bàn với anh ấy là nếu tìm ra được tài liệu đó, thì
ta nên giới thiệu. Ðấy là một lý do thuộc về tư liệu
học; tức là không phải hễ muốn có tài liệu là có. Và
có những khoảng thời gian mà lịch sử rộng lượng với
người nghiên cứu, giúp chúng tôi đến với nó một cách
dễ dàng.
Khoảng 1991-1992 chúng tôi được cầm trong tay một bản
chụp photocopie bản thảo này, trong đó Phan Huy Chú ghi khá
chi tiết thời gian khởi hành từ thủ đô Huế; qua các chặng
đường khi đi tàu thủy ở Việt Nam, theo duyên hải miền
Trung, tàu hướng phía Ðông Nam, đi tới hai nơi, cái đích
cuối cùng là Batavia. Nhưng trước đó ngừng ở Singapour, sau
mới đến Batavia.
Tập du kí này để lại cho chúng ta như một cái..., có
thể nói là một tập ảnh chụp, theo lối viết croquis, về
các sinh hoạt mà một người đến tận nơi nhận xét và ghi
chép khi có dịp may mắn đi ra nước ngoài.
TK: Anh làm công việc nghiên cứu
đã lâu, tại sao lại có sự lựa chọn đưa quyển sách ra
lúc này, mà không đưa cuốn sách khác?
TTH: Cuốn sách của chúng tôi được in vào cuối
năm 94, đầu năm 95. Tóm tắt có hai điều đáng nói, đó là:
Ðiều thứ nhất: Cuốn này lâu nay có được giới
nghiên cứu biết đến tên, nhưng không ai có hoàn cảnh tìm
ra văn bản đầy đủ. Nhờ sự hợp tác với giáo sư Phan
Huy Lê ở trong nước, chúng tôi được cái may mắn cầm trong
tay bản chụp nguyên bản tập du ký đó; và rất nhanh, chúng
tôi đã hợp đồng với nhau cùng dịch, cùng chú giải để
giới thiệu cho nhanh một tư liệu mà chúng tôi đánh giá là
có giá trị lịch sử khá lớn.
Về mặt thực tế thì bây giờ sách mới ra được vì
có sự gặp gỡ giữa ba người cùng nghề Hán Nôm với nhau
tức là anh Lê, bà Claudine Salmon và tôi. Mỗi người đưa vào
cuốn sách dịch và chú giải này, phần sở trường của mình.
Về tiểu sử, nhân giới thiệu cuốn sách của Phan Huy
Chú có lẽ cũng phải đem lại một cái gì phong phú và mới
chăng, về thân thế và sự nghiệp Phan Huy Chú. Phần này là
phần đóng góp của anh Lê. Anh Lê cũng là dòng giõi của tác
giả, và họ Phan Huy bây giờ vẫn còn nhiều người.
Ðiểm thứ nhất là nội dung cuốn du ký này nói về
chuyến đi Singapour và sau đó, miêu tả rất kỹ thủ đô Batavia,
lúc đó do người Hòa Lan thống trị. Thì cái phần văn hóa
và thông tin lịch sử về Singapour và Batavia, trong ba chúng
tôi, người nắm được sâu sắc nhất là bà Claudine Salmon.
Bạn đọc sẽ thấy chú giải nhiều khi dài hơn cả nguyên
văn. Những chú giải này đem lại nhiều điều rất bổ ích
cho bản dịch; đó là phần đóng góp của bà Salmon. Còn tôi,
ngoài việc chú giải về địa danh, còn nắm vững và đảm
bảo việc đọc văn bản chữ Hán của Phan Huy Chú, tương
đối đừng có nhiều sơ hở sai lầm quá buồn cười, để
cho các bậc thức giả đọc đến cũng không đến nỗi phải
nhức đầu. Ðó là phần đóng góp của tôi. Cả ba chép lại
thì ra được tác phẩm với cái bìa xinh xắn như Thụy Khuê
biết đấy.
Còn tại sao lại đưa sách ra, vào lúc này? Có thể nói
rằng lúc này lịch sử bắt đầu khoan hồng với người nghiên
cứu chăng? Có thể một phần do Việt Nam mấy năm nay mở
cửa cho nên sự qua lại, hợp tác và xin tài liệu với đồng
nghiệp trong nước dễ hơn xưa. Ðó là điều dễ nói nhất.
Ðiều thứ hai nữa là, trong khi đọc văn bản này, chúng tôi,
cũng như các bạn đều đang sống trong giai đoạn tạm gọi
là thời hậu chiến của thế giới, đối với Việt Nam và
những nước Ðông Dương thì chiến tranh hình như vẫn còn
kéo dài cho đến gần đây; và bây giờ đến giai đoạn người
ta muốn và cần nối lại với các nước láng giềng. Cố
nhiên chủ yếu là về mặt kinh tế, về mặt đào tạo con
người. Và người Việt Nam bây giờ khám phá ra là Việt Nam
không thể sống cô lập, không nên sống cô lập; và đúng
lúc đó lại hiện ra một bài học rất cổ điển của lịch
sử: Chúng ta không phải là người đầu tiên đi thăm dò những
con đường sang láng giềng. Trước khi có nền thưộc địa
của Tây phương, đối với một số nước ở Phi Châu hay
Á Châu, thì các nước đó đã từng có những mối quan
hệ về nhiều mặt với nhau rồi:
- Thứ nhất là về chính trị.Tất cả những hiện tượng này đề được phản ánh trong tập ghi chép của Phan Huy Chú, nhân ông đi công tác sang Indonesia năm 1832-1833.
- Thứ hai, tạm gọi là về kinh tế, tài chính. Trong đó, từ thế kỷ XVIII trở đi, thì rất rõ vai trò mà ai cũng biết, của người Hoa đi từ Trung Quốc, chủ yếu là từ tỉnh Phúc Kiến và hai tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây, ra nước ngoài sinh cơ lập nghiệp và buôn bán; tạo ra một màng lưới nhân sự và thương nghiệp giữa Trung Quốc và các nước lân cận, vùng Ðông Nam Á.
TK: Thưa anh, cùng thời điểm này,
triều đình Huế, ngoài Phan Huy Chú, còn gửi những sứ giả
khác như Lý Văn Phức, Cao Bá Quát, v.v... Theo anh, triều đình
Huế gửi đi với mục đích gì?
TTH: Theo như một bài mà giáo sư Trần Kinh Hòa (Chen
Ching-ho) đã viết ra, mà chúng tôi cũng giới thiệu gần đây,
dịch ra và đăng trong Tập san của trường Viễn Ðông Bác
Cổ, trong đó có ghi niên biểu rất rõ về toàn bộ các chuyến
công du của triều đình Nguyễn sang các nước lân cận. Thời
tiền Gia Long, đã bắt đầu có một số chuyện đi các nước
chung quanh Việt Nam, lúc đó những nước này đã ở trong tay
người Anh hay người Hòa Lan rồi. Những chuyến đi này chỉ
có một mục đích là phục vụ cho chiến tranh: Nguyễn Ánh
cần mua tầu, mua thuyền, mua súng.
Sau khi Gia Long lên ngôi, thì ta thấy một hiện tượng rất
lạ: Người mang tiếng là vay nợ Tây phương nhiều nhất,
và gần như là mang tội rước voi dẵm mả tổ -là ông Gia
Long- rất cảnh giác với Tây phương. Trong thời gian Gia Long
cầm quyền từ 1802-1820, không gửi chuyến công du nào đi Ðông
Nam Á cả. Ðóng cửa xây dựng đất nước.
Nhưng từ Minh Mạng trở đi thì Minh Mạng không thể tiếp
tục chính sách đóng cửa của cha mình nữa. Năm 1817, người
Anh chính thức sáng lập ra Singapour. Và rất nhanh, chỉ một
vài năm sau là Singapour đã phát triển thành thương cảng lớn
nhất vùng Ðông Nam Á, vượt qua rất nhanh một thương cảng
nhỏ hơn mà người Hòa Lan đặt ở vùng đất gần Singapour.
Ðồng thời, trước năm Phan Huy Chú ra đi (1832) thì năm
30-31 đã có hai, ba chuyến rất đáng chú ý: Lý Văn Phức được
gửi đi Bengale, qua nơi đó xem chính sách người Anh ở Ấn
Ðộ như thế nào. Rồi năm 31, có một sứ giả mà sau này
tên tuổi rất nổi tiếng là Phan Thanh Giản, lúc đó còn rất
trẻ, đã được, cùng với một hạ thần hay chữ là Hà Tôn
Quyền, đi công cán ở Batavia. Phan Huy Chú không phải là người
đầu tiên đi công cán ở Batavia.
Sau đó, năm 1844 đến phiên Cao Bá Quát.
Như vậy, nhà Nguyễn từ Minh Mạng trở đi, cho tới đầu
đời Tự Ðức, có một chính sách khá rõ: Gửi những đoàn
công sai đi làm hai, ba công tác. Thứ nhất là thông tin. Ðiều
này ghi rõ trong Ðại Nam Thực Lục: Gần như mỗi lần vua
đều tiếp đón các phái bộ trước khi họ ra đi. Và dặn
họ rất kỹ. Có một chuyến, phái đoàn Phan Huy Chú đi thăm
Trung Quốc. Trước khi đi, vua dặn, sang bên đó cố mua tài
liệu sách cổ và cả những sách mà bên đó người ta không
in, nhưng có giá trị thông tin, phải ghi lại để báo cáo
tình hình xã hội bên Trung Quốc. Chuyến đi Trung Quốc đó,
phái bộ Phan Huy Chú hình như không làm công tác chu đáo và
đã bị vua quở trách khá nặng nề.
Ðó là mục đích thứ nhất, cần được thông tin về
những gì đã xảy ra và đang xảy ra chung quanh nước Việt
Nam. Tây phương đã xuất hiện với những tầu chiến, với
những thương cảng, những lối làm ăn có tổ chức, thương
nghiệp. Những điều này vừa là một hấp dẫn, vừa là một
đe dọa, đối với người Việt Nam. Và cái công thức mà
tôi vừa nói đó, có lẽ ngày hôm nay vẫn còn giá trị: Vừa
hấp dẫn, vừa đe dọa, và là một thách thức mà ta phải
cố gắng tìm cách đương đầu. Có lợi cho ta chăng? Mối
lợi đó, đối với các vua triều Nguyễn thì rõ lắm; trong
Phan Huy Chú có nói và trong nhiều chuyến công du khác cũng
có nói đến:
Thứ nhất là đi buôn bán cho triều đình. Vua tự dành
cho mình độc quyền nhập cảng một số mặt hàng tiêu dùng,
xa xỉ phẩm cho triều đình, cho các bà hậu, vợ các vua lớn.
Hoặc là chính triều đình cần một số xa xỉ phẩm như lụa,
vải vóc, hương liệu, v.v...
Thứ hai là bán. Ðiểm này vua có ý dấu. Nhưng nếu ta
dò kỹ một số tài liệu, cũng thấy là có một số mặt
hàng như gạo và hình như có cả thuốc phiện nữa,... cấm
dân chúng, cấm các nhà tư nhân không được bán ra nước
ngoài. Nhưng mà chính nhà vua -hình như- lại bán những cái
đó. Ðây là một việc rất tế nhị mà chính quyền nhà Nguyễn
đã cố gắng giải quyết trên đầu dân. Dân không được
tham dự vào. Cố nhiên, lâu lâu cũng có những ông hoàng nhận
hối lộ của những thế lực tư nhân Hoa kiều, mà làm. Họ
cũng đi vào những con đường tạm gọi là tham nhũng. Có lẽ
điều này cũng còn tính cách thời sự ngày hôm nay, chưa hoàn
toàn hết.
Ðấy là về chính sách nhà Nguyễn. Tóm lại có hai nhu cầu:
1. Thông tin về mặt chính trị và quân sự về sự đe dọa của Tây phương;
2. Tìm hiểu xem họ tổ chức thương nghiệp như thế nào, đồng thời mua bán với họ một số hàng hóa.
TK: Việc triều đình Huế gửi sứ
giả ra ngoài để thăm dò tình hình và buôn bán, và khi trở
về, họ tâu lên vua những bản điều trần canh tân đất
nước mà vua không nghe, với việc thời nay, có gì khác hoặc
giống nhau không, thưa anh?
TTH: Câu hỏi của Thụy Khuê đặt ra là một vấn
đề rất lớn cho sử học, mà không thể tiện khẳng định
bây giờ; vì chúng tôi mới đang ở đoạn đầu của sự thăm
dò thôi. Tôi có một vài cảm tưởng, dựa trên cơ sở tài
liệu của các sứ giả mà tôi đã được đọc kể từ đầu
đời Minh Mạng cho đến hết đời Tự Ðức. Một trong những
cuốn du ký cuối cùng đáng suy nghĩ là du ký của phái bộ
Phan Thanh Giản sang Paris năm 1863. Người cầm bút là Phạm
Phú Thứ, sau chuyến đó, về thì có thực hiện một số hành
động canh tân, dịch sách khoa học, kỹ thuật của người
Anh, người Mỹ, qua bản dịch chữ Hán ở Trung Quốc. Theo
đó, ta có thể hình dung được là cuộc mở cửa của Việt
Nam, nhìn ra nước ngoài, đã khởi sự những năm đó. Và hôm
nay, vẫn đang tiếp tục.
Cuộc mở cửa này bị gián đoạn bởi một thế kỷ Pháp
thuộc. Nhưng bây giờ, đang nối lại với quá khứ thời nhà
Nguyễn. Ở hai đầu mốc này, có điều gì giống nhau và khác
nhau không?
Về nội dung thì những giao tiếp với ngoại giới, được
phía thường dân, hoặc giới quan lại, hoặc phía lãnh đạo
có những ấn tượng, những suy nghĩ, và những thay đổi như
thế nào trong vũ trụ quan, trong nhân sinh quan của họ? Tôi
thấy hình như có một cái gì giống nhau giữa hai giai đoạn.
Trong suốt đời Minh Mạng và đời Thiệu Trị, một số
không nhỏ những phái đoàn đi Batavia. Sau Phan Huy Chú thì có
những phái đoàn khác, do một người rất nhạy bén về việc
này, hồi đó được vua tin cẩn lắm -theo một sử liệu Tây
phương-, dẫn đầu là ông Ðào Trí Phú -có con gái là một
bà thiếp của vua Thiệu Trị, tiếng Pháp họ viết là le beau
père de l'Empereur-. Ông này được giao sứ mệnh đi mua thuyền
bằng đồng hay bằng thép của người Anh hay người Hòa Lan,
có súng đại bác đem về để trang bị. Có thể nói là để
đổi mới quân đội Việt Nam. Các vua mình, tuy tình trạng
ngân sách eo hẹp, đã có cố gắng khá lớn để mua những
tầu khá đắt. Có khi mua về còn phải thuê thêm cả đoàn
thủy thủ và sĩ quan của Tây phương để bảo hành trong một
thời gian, trong khi người mình học cách sử dụng và sửa
chữa máy móc.
Vậy thì có cố gắng. Không phải đợi đến Nguyễn Trường
Tộ hay về sau, các vua nhà Nguyễn mới biết công nhận sự
ưu thắng, thế mạnh của Tây phương về mặt kỹ thuật.
Và hình như bây giờ cũng thế, người mình cũng rất nhậy
bén trong sự tìm hiểu, sử dụng, sắm mua và tháo ra, ráp
lại những linh kiện, những bộ máy phức tạp, hiện đại
của Tây phương về điện não, informatique, điện tử, v.v...
Người mình học rất nhanh về mặt kỹ thuật, tôi tạm gọi
là cái know-how, cái savoir faire, để sử dụng thực tế thôi.
Còn về tinh thần thì thế nào? Ðiểm này, tôi hơi bi quan,
vì tôi thấy hình như người mình thay đổi về vũ trụ quan,
nhân sinh quan, thay đổi quan niệm về khoa học, rất chậm.
Và ai cũng biết là những dịp mở cửa của vua nhà Nguyễn,
đã không được thể hiện kịp thời, để khi người Pháp
đổ bộ vào Việt Nam, thì Việt Nam có đủ sức chống trả
lại, hoặc có đủ thông tin về những thế lực lớn trên
thế giới trên chiến trường ngoại giao quốc tế. Như Nguyễn
Trường Tộ đã khuyên vua Nguyễn là nên làm sao gây ra cuộc
cạnh tranh giữa Anh và Pháp để vô hiệu hóa cả hai cường
quốc này. Thái Lan đã thành công. Tuy không biết Nguyễn Trường
Tộ nhưng Thái Lan đã làm đúng như Nguyễn Trường Tộ. Cả
Anh lẫn Pháp đều bó tay nhau trước ngưỡng cửa Thái Lan
và không đem quân đánh Thái Lan, điều mà Nguyễn Trường
Tộ mong cho ta, và ta đã không làm được.
Vậy trong sự học hỏi, có ít nhất hai điểm:
1. Hiểu tinh thần khoa học của người ta cho đúng;
2. Hiểu tình hình xã hội và chính trị thế giới như thế nào để có một lập trường và đường lối ngoại giao cho có kết quả. Ta còn yếu thì ta vô hiệu hóa những kẻ mạnh hơn ta. Ðiểm này thì thỉnh thoảng Việt Nam cũng có một chút thành công, nhưng tôi sợ là chưa nhiều lắm.
TK: Thưa anh, một người bạn của anh
là giáo sư Nguyễn Văn Trung, trên đài RFI, sau khi đi dự hội
nghị Aix en Provence về, có nói là trong tình trạng hiện nay,
thì Việt Nam chưa thể có một nền khoa học xã hội, theo
đúng nghĩa của nó. Anh nghĩ sao về vấn đề này? Và cuốn
Hải Trình Ký Lược vừa được công bố, có thể xem như
là một phương cách nghiên cứu cổ theo đúng phương pháp
khoa học, làm tới nơi, tới chốn mà phần nhiều những tác
phẩm nghiên cứu hiện hành của ta, chưa đạt được?
TTH: Về mặt công bố tài liệu và chú giải như
chúng tôi đã thử làm đó, thì nó thuộc về quy cách chung
của các nước, khi họ gặp tài liệu cổ và họ muốn đưa
ra để cho người bây giờ đọc. Công việc của chúng tôi
không có gì đặc biệt đâu. Chỉ có cố gắng và thiện chí
làm cho thật tốt đấy thôi. Trước khi đi xa, tôi xin phép
trở lại một hai điểm ghi trong bản du ký của Phan Huy Chú.
Thời đại của Phan Huy Chú chưa phải là thời đại để
người ta đặt những vấn đề như thời đại Nguyễn Trường
Tộ. Nhưng Phan Huy Chú cũng đã ghi rằng, ở thành phố Batavia,
có kỷ luật, đời sống có tổ chức, luật pháp rất nghiêm
chỉnh. Cho nên nạn tham nhũng gần như không có. Ðấy là những
điều mà Phan Huy Chú đã cố gắng nói với vua một cách kín
đáo, là Tây phương không chỉ hơn mình về mặt súng mạnh,
tầu mạnh, mà cả về mặt tổ chức luật pháp, -cái gọi
là nhà nước pháp quyền-.
Phan Huy Chú, năm 1832 mà đã ghi được những điều đó;
ngày hôm nay, bức tường ngăn chặn thông tin đã xóa bỏ giữa
Việt Nam và thế giới rồi; tôi nghĩ là đáng lẽ những người
làm khoa học xã hội, phải nên được hỗ trợ, do chính quyền
hay do độc giả, chú ý đến sử học. Hỗ trợ để cho công
cuộc nghiên cứu được phát triển hơn nữa. Chúng tôi mới
chỉ làm được những công việc nho nhỏ. Còn nhiều tài liệu
đáng giới thiệu lắm.
Về câu nhận định của anh Trung về sự cần ra đời
mà chưa thấy ra đời, một nền khoa học xã hội chân chính
ở Việt Nam, tôi cũng có một vài ý kiến, nhưng có lẽ nên
dành cho một buổi nào khác để thảo luận cho đúng tầm
quan trọng của câu hỏi. Hôm nay, tôi chỉ có một hai ý để
đáp cho đúng câu hỏi của Thụy Khuê thôi, là hình như trong
truyền thống Việt Nam, người mình cố định trong sự giữ
nề nếp tinh thần cố hữu. Cho nên sự thay đổi về lập
trường để đi vào khoa học thế giới, nó chậm lắm.
Ðiểm thứ hai nữa là, -ngay cuốn Phan Huy Chú này cũng
là một minh chứng đau thương đấy- nếu có tài liệu thông
tin tốt, thì nó phải nằm riêng cho vua quan dùng, không được
công bố. Cho đến ngày hôm nay mới được công bố, đây
cũng là một điều lạ. Có lẽ truyền thống này vẫn còn
tồn tại ngày hôm nay: Người ta chưa hiểu rằng cần phổ
biến thông tin mọi mặt để cho cả nước được thông tin
rộng rãi. Có lẽ điểm này là một vấn đề còn phải bàn
thêm. Hôm nay tôi tạm đáp như thế thôi.
TK: Người đọc bản dịch Hải
Trình Chí Lược còn để ý một nhân vật thứ nhì nữa
là Cao Bá Quát, và riêng anh, anh đã dành rất nhiều thì giờ
cho Cao Bá Quát trong công việc nghiên cứu của anh.
TTH: Tôi rất muốn được nói về Cao Bá Quát. Xin
cảm ơn Thụy Khuê đã đặt câu hỏi.
Cao Bá Quát là một tên rất quen thuộc với người có
đọc một chút về văn học sử Việt Nam. Tôi chưa dám nhận
là chuyên gia về Cao Bá Quát, vì tôi chưa được đọc nhiều
về ông, nhưng mà nhân nghiên cứu về Phan Huy Chú, rồi nhân
Cao Bá Quát cũng được đi công du sang Batavia năm 1844, cho nên
gần đây, bà Claudine Salmon và tôi có viết được một bài
ngắn, giới thiệu những bài thơ mà Cao Bá Quát đã viết
trong thời gian đi Batavia.
Ông không viết du ký văn xuôi, hay một bản tường trình
đầy đủ như Phan Huy Chú. Cao Bá Quát chủ yếu là nhà thơ,
nhà tư tưởng lớn trong thơ. Hiện nay còn lại hơn mười
mấy bài thơ, ghi dấu vết đi Batavia; một số bài đã được
giới thiệu trong nhiều tuyển tập về thơ chữ Hán của Cao
Bá Quát, ở trong nước, từ mấy chục năm nay. Chúng tôi chưa
có dịp tham khảo tất cả các bản thơ chữ Hán của Cao Bá
Quát. Theo lược thuật của nhóm ông Vũ Khiêu ở ngoài Bắc,
thì bây giờ còn mấy nghìn bài thơ Cao Bá Quát chứ không
phải ít đâu. Riêng về Batavia thì có ít thôi. Nhưng có một
hai bài mà nhóm Vũ Khiêu chưa chú ý giới thiệu, chúng tôi
cố gắng giới thiệu và bình luận cho thấy tất cả ý nghĩa
và nội dung chính trị của nhà tư tưởng và nhà thơ Cao Bá
Quát.
Khi đứng trước hiện tượng đang phát triển khắp nơi,
chung quanh Việt Nam những năm 1840 trở đi, và đến đời Tự
Ðức thì càng rõ: Chỉ 10 năm sau chuyến đi của Cao Bá Quát
quân Pháp đã đổ bộ vào Ðà Nẵng rồi, thời gian lúc ấy,
gần như là đã gấp rút lắm. Về viễn tượng ấy, Cao Bá
Quát để lại một bài thơ, một bài rất dài mà Cao Bá Quát
tặng một người bạn cùng đi sứ với ông, đó là ông Trần
Tú Dĩnh, một nhà nho rất ít được giới thiệu. Cái tên
Trần Tú Dĩnh (alias Trần Ngộ Hiên) đối với nhiều người,
có thể còn xa lạ. Nhưng ông ấy lại là một người đồng
chí của Cao Bá Quát.
Bài thơ này dài nhất trong những bài thơ đi Batavia của
Cao Bá Quát; ông gọi là một bài 16 vần, chia ra làm 32 khúc,
mỗi khúc 4 câu. Dùng những hình tượng mượn trong văn học
cổ điển Trung Quốc để nói về tình hình lúc đó: Tây phương
xuất hiện như thế nào? Trung Quốc và Việt Nam đang bất
lực như thế nào? Ðấy là một tiếng kêu cứu rất lớn
và rất sáng suốt. Cao Bá Quát quả thật là đúng như hôm
nay ta đã đánh giá, là một người rất đáng chú ý, một
tâm hồn lớn. Và riêng tôi là người hay chú ý đến những
nhà văn nổi loạn như thế, tôi đã dành rất nhiều năm để
thử nghiên cứu, và nếu không lười quá, hôm nào tôi cũng
viết về một người ở Trung Quốc như Kim Thánh Thán.
Kim Thánh Thán có một cái chung cục rất giống Cao Bá Quát,
là cả hai người này đều mang tiếng là nổi loạn trong thời
gian còn sống, và đều đã bị chính quyền của mình cắt
đầu, giết chết. Ðây là một thứ truyền thống tôi cho
là khá ác liệt và khá bền bỉ ở Việt Nam, là hễ ai có
cá tính, ngóc đầu lên, thì ta lại dìm xuống.
Cao Bá Quát trong chuyến đi đó, thấy rõ nhiều vấn đề lắm. Và điều thu hoạch thứ hai của Cao Bá Quát, là ông gần như phủ nhận văn học nhà nho mà người ta đã nhồi vào đầu ông, từ lúc còn đi học. Tôi xin được phép đọc hai ba câu thơ của Cao Bá Quát viết sai khi đi Batavia về. Mấy năm sau, ở Ðà Nẵng, ông viết một bài thơ dài, tôi trích mấy câu dịch ra văn xuôi:
Tự tùng phiếm hải lịch ba sơn (1)Ðại ý là: Từ chuyến đi thuyền trên biển sang tới Batavia, thì mới hiểu rằng trong cõi trần hoàn này rất rộng lớn và thấy rằng những chuyện văn chương mà tôi học được từ xưa, đều là chuyện trò chơi con trẻ cả. Và ông ấy ước rằng: Nếu trong thế gian này, có người nào là chân nam tử tức là người có bản lĩnh thật sự, thì mong người đó đừng uổng công, cái công bình sinh đời Cao Bá Quát đã bỏ ra rất nhiều năm để đọc thư và đọc sử.
Thủy giác lục hợp hà mang mang
Hướng tích văn chương đẳng nhi hí
Thế gian thùy thị chân nam tử
Uổng cái bình sinh đọc thư sử
TK: Thưa anh, một câu hỏi rất ngắn
thôi, ngày nay có nhiều trường hợp Cao Bá Quát không?
TTH: Có lẽ vẫn chưa hết. Nhưng mà bây giờ người
ta, người cầm quyền tinh vi hơn. Họ không cần chặt đầu.
Họ cứ để cho chết dần chết mòn mà vẫn được tiếng
là: Chúng tôi dân chủ đấy, có đàn áp ai đâu.
TK: Xin cám ơn anh Tạ Trọng Hiệp
Chú thích:
(1) ba sơn = Batavia