Tạ Trọng Hiệp

(1933-1996)
 
 

Tạ Trọng Hiệp sinh ngày 18/10/1933 tại làng Thụy Khuê (làng Giấy), cạnh Hồ Tây, Hà Nội; từ trần hồi 21 giờ ngày 25 tháng 10 năm 1996, vì bệnh ung thư, tại bệnh viện Kremlin Bicêtre, ngoại ô Paris. Hưởng thọ 63 tuổi.

Xuất thân từ một gia đình văn học. Quê cha ở Hưng Yên, quê mẹ Nam Ðịnh.
Cha là Tạ Ðình Bính, một trong hai chủ bút của Hà Thành Ngọ Báo, và mẹ là Phùng Thị Vị, đã từng viết trong Hà Thành Ngọ Báo dưới bút hiệu Mỹ Chân những năm 30. Tạ Trọng Hiệp cùng với anh là Tạ Mạnh Thường (1) đã thấm nhuần không khí văn học trong sách vở gia đình. Ông ngoại là cụ Phùng Gia Tấn, cử nhân Hán học, bà ngoại là cụ Trần Thị Nhị, cũng người hay chữ, thông thuộc văn thơ cổ điển.

Vì hoàn cảnh gia đình, cha mẹ xa nhau từ lúc ông mới sáu tuổi. Cha vào Sài Gòn và mất tại đây vào khoảng từ 41 đến 45. Năm 40 mẹ tái giá với một sĩ quan người Pháp và sinh hạ được hai người con gái là Madeleine và Eliane. Thời gian này hai anh em Tạ Trọng Hiệp và Tạ Mạnh Thường phải vào nội trú ở trường Phổ Thông, ngoại ô Hà Nội, dành cho các học sinh bán mồ côi trong vòng hơn bốn năm. Quãng đời thơ ấu này đã gây dấu ấn nặng nề trong đời Tạ Trọng Hiệp và có lẽ đó là lý do khiến sau này, trên các hồ sơ chính thức, ông tự nhận là trẻ mồ côi từ nhỏ (2), được người cô nuôi dưỡng.

Sau những năm tiểu học ở trường Phổ Thông, và bắt đầu trung học ở trường tư thục Gia Long, Hà Nội; tháng 11 năm 1944 cha dượng phải đổi vào Ðà Nẵng. Tạ Trọng Hiệp theo gia đình vào Huế, rồi ra Ðà Nẵng. Ở đây ông học tiếp một năm ở trường trung học công và bắt đầu tiếp xúc với chữ Hán. Sau đó ông quyết định không đến trường nữa và tự học lấy một mình. Thời gian này ông đã bắt đầu tích lũy sách vở.
Năm 1948, gia đình vào Sài Gòn rồi năm 49 cả nhà sang Pháp. Tạ Trọng Hiệp ở lại Sài Gòn làm việc để tự túc và tự học.
Năm 1951, được mẹ gửi vé tầu về, ông sang Pháp. Tại Pháp vừa đi học, vừa đi làm. Học hàm thụ ở Ecole Universelle, thi tú tài, rồi theo học ở đại học Sorbonne. Ðồng thời học chữ Hán ở trường Sinh Ngữ Ðông Phương (Ecole Nationale des Langues Orientales).
Năm 1953 đến thụ giáo giáo sư Hoàng Xuân Hãn trong vòng một năm. Chính giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã dẫn ông vào con đường nghiên cứu Hán Nôm.

Ngày 30 tháng 10 năm 1954, Tạ Trọng Hiệp kết hôn với Micheline Guillot, sinh đuợc hai trai: Tạ Huy Tuân (18/2/1955) và Tạ Huy Kim (22/12/1962). Ly dị ngày 24/6/1987.

Năm 56-57 xong cử nhân văn chương, ông học thêm ngôn ngữ học, lịch sử văn hóa Trung Quốc, lịch sử tôn giáo và ngữ âm học. Ngoài ra, từ 1957 ông còn học thêm ở trường Cao Học Thực Hành (Ecole Pratique des Hautes Etudes) trực thuộc Sorbonne, với giáo sư Maurice Durand. Chính giáo sư Durand đã giới thiệu ông vào làm việc tại Trung Tâm Nghiên Cứu Khoa Học Pháp (CNRS) từ cuối năm 1958, về ngành Ngôn Ngữ và Văn Minh Ðông Phương mà ông phụ trách về Lịch Sử và Ngôn Ngữ Việt Nam, dưới sự điều khiển của giáo sư Durand cho tới khi ông mất vì bệnh ung thư năm 1967.
Sau đó là dưới sự điều khiển của giáo sư Demiéville -người mà trong 20 năm cuối đời nổi tiếng là người thầy của ngành Hán học- cho tới khi ông mất năm 1979.

Năm 1970, Ðại học Paris VII muốn mở một ban Việt Học. Tạ Trọng Hiệp sáng lập ra ban Việt Học bắt đầu trường ở đường Censier rồi sau dọn sang đường Jussieu mà ông là giáo sư Hán Nôm cho tới ngày mất.
Ông là thành viên của Société Asiatique (Hội Á Châu).
Tủ sách của Tạ Trọng Hiệp cũng là một di sản văn hóa lớn lao cho giới nghiên cứu văn học. Sau khi ông mất, người con lớn là Tạ Huy Tuân lo việc bảo quản, đã gói ghém toàn bộ thư viện đem về Foucarmont, Normandie (Pháp).
Tạ Trọng Hiệp làm việc âm thầm và những công trình của ông thể hiện phần lớn như những báo cáo cho Trung Tâm Nghiên Cứu Khoa Học Pháp.
Ông là vai chính trong việc phát hiện bộ Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư, bản Nội Các Quan Bản, còn giữ được trong tủ sách của giáo sư Demiéville.
Ông cũng phát hiện những đoạn Lê Quý Ðôn chép lại sách Trung Quốc mà không đề rõ xuất xứ, và đặt vấn đề khảo sát lại Vân Ðài Loại Ngữ của Lê Quý Ðôn.
Ông đã tham gia đắc lực vào việc hình thành Thư Mục Di Sản Hán Nôm từ đời Lý Trần đến ngày nay.
Ông đã dịch và chú giải Hải Trình Chí Lược của Phan Huy Chú, cùng với Claudine Salmon và Phan Huy Lê.
Dịch và chú giải cùng với Claudine Salmon, một số bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát chưa được mọi người biết đến.
Nhiều công trình nghiên cứu còn đang dang dở dưới dạng bản thảo chưa in, trong đó có chương trình Tuyển Tập Văn Bia Bi Ký Việt Nam từ thời Lý Trần đến ngày nay. Ðây là chương trình cộng tác giữa trường Viễn Ðông Bác Cổ và Viện Hán Nôm Hà Nội.

Sự nghiên cứu của Tạ Trọng Hiệp về Văn Bản Học và Thư Tịch Học, không chỉ riêng ở việc phát hiện các bản văn, mà còn ở chính phần chú giải, hiệu đính, người đọc mới cảm thấy sự học rộng của ông. Tính cách khoa học, trật tự làm việc nghiêm túc và cẩn trọng đến độ chi ly, toàn bích.

Paris 10/3/1997
Thụy Khuê,
ghi chép theo lời kể của cụ bà Phùng Thị Vị,
tài liệu của Tạ Huy Tuân và bài
Tạ Trọng Hiệp trả lời phỏng vấn của Hugues Decarnin, 1990.
Hợp Lưu số 34, tháng 4-5 năm 1997.
Chú thích
(1) Sinh năm 1931. Sau này, Tạ Mạnh Thường lấy tên và quốc tịch Pháp.
(2) Trả lời phỏng vấn của Hugues Decarnin, 1990.